Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng thánh điển PGVN 10 » Tạng Tam Tạng Thượng Toạn Bộ 10 »

PHÂN TÍCH GIỚI BỔN 
(Suttavibhaṅga)
Tỳ-Khưu INDACANDA

Mục Lục

2.1. ĐIỀU PĀRĀJIKA THỨ NHẤT

 

TỤNG PHẨM SUDINNA

1. Vào lúc bấy giờ, ở không xa thành Vesālī, có ngôi làng tên là Kalanda. Ở nơi ấy, có người con trai nhà đại phú tên là Sudinna Kalandaputta. Khi ấy, Sudinna Kalandaputta đã đi đến Vesālī cùng với nhiều người bạn vì công việc cần làm nào đó. Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn được vây quanh bởi hội chúng đông đảo, đang ngồi thuyết giảng giáo pháp.

2. Sudinna Kalandaputta đã nhìn thấy đức Thế Tôn được vây quanh bởi hội chúng đông đảo, đang ngồi thuyết giảng giáo pháp. Sau khi nhìn thấy, anh ta đã khởi ý điều này:[1] “Hay là ta cũng nên nghe pháp?” Khi ấy, Sudinna Kalandaputta đã đi đến gần hội chúng ấy, sau khi đến đã ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Sudinna Kalandaputta đã khởi ý điều này: “Theo như ta hiểu về pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì việc này không phải là dễ làm đối với người đang sống ở gia đình để thực hành Phạm hạnh một cách đầy đủ trọn vẹn, hoàn toàn thanh tịnh như vỏ ốc được cạo sạch. Hay là ta nên cạo bỏ râu tóc, khoác lên các y màu ca-sa, rời nhà xuất gia, sống không nhà?”

3. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích và tạo niềm phấn khởi bằng bài pháp thoại, hội chúng ấy đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh và ra đi.

4. Sau đó, khi hội chúng đã đứng dậy không bao lâu, Sudinna Kalandaputta đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Sudinna Kalandaputta đã nói với đức Thế Tôn điều này:

– Bạch Ngài, theo như con hiểu về pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì việc này không phải là việc dễ làm đối với người đang sống ở gia đình để thực hành Phạm hạnh một cách đầy đủ trọn vẹn, hoàn toàn thanh tịnh như vỏ ốc được cạo sạch. Bạch Ngài, con muốn cạo bỏ râu tóc, khoác lên các y màu ca-sa, rời nhà xuất gia, sống không nhà. Xin đức Thế Tôn hãy [làm lễ] xuất gia cho con.

– Này Sudinna, vậy ngươi đã được mẹ và cha cho phép về việc rời nhà xuất gia, sống không nhà chưa?

– Bạch Ngài, con chưa được mẹ và cha cho phép về việc rời nhà xuất gia, sống không nhà.

– Này Sudinna, các đức Như Lai không [làm lễ] xuất gia cho người con trai chưa được mẹ và cha cho phép.

– Bạch Ngài, bằng cách nào khiến mẹ và cha sẽ cho phép con về việc rời nhà xuất gia, sống không nhà thì con đây sẽ làm theo cách ấy.

5. Sau đó, khi đã hoàn tất công việc cần làm ấy ở Vesālī, Sudinna Kalandaputta đã đi về lại làng Kalanda đến gặp mẹ và cha, sau khi đến đã nói với mẹ và cha điều này:

– Mẹ và cha à! Theo như con hiểu về pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì việc này không phải là việc dễ làm đối với người đang sống ở gia đình để thực hành Phạm hạnh một cách đầy đủ trọn vẹn, hoàn toàn thanh tịnh như vỏ ốc được cạo sạch. Con muốn cạo bỏ râu tóc, khoác lên các y màu ca-sa, rời nhà xuất gia, sống không nhà. Hãy cho phép con về việc rời nhà xuất gia, sống không nhà.

Khi được nói như thế, mẹ và cha của Sudinna Kalandaputta đã nói với Sudinna Kalandaputta điều này:

– Này Sudinna thương! Con chính là con trai một, yêu dấu, quý mến của mẹ và cha, được lớn lên trong sung sướng và được chăm sóc cẩn thận. Này Sudinna thương! Con không biết bất cứ điều gì về khổ đau. Chỉ có sự chết thì mẹ và cha đành phải xa con một cách miễn cưỡng, làm sao trong lúc con đang còn sống, mẹ và cha lại cho phép con về việc rời nhà xuất gia, sống không nhà được?

6. Đến lần thứ nhì, ...(nt)... Đến lần thứ ba, Sudinna Kalandaputta đã nói với mẹ và cha điều này:

– Mẹ và cha à! Theo như con hiểu về pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng thì việc này không phải là việc dễ làm đối với người đang sống ở gia đình để thực hành Phạm hạnh một cách đầy đủ trọn vẹn, hoàn toàn thanh tịnh như vỏ ốc được cạo sạch. Con muốn cạo bỏ râu tóc, khoác lên các y màu ca-sa, rời nhà xuất gia, sống không nhà. Hãy cho phép con về việc rời nhà xuất gia, sống không nhà.

Đến lần thứ ba, mẹ và cha của Sudinna Kalandaputta đã nói với Sudinna Kalandaputta điều này:

– Này Sudinna thương! Con chính là con trai một, yêu dấu, quý mến của mẹ và cha, được lớn lên trong sung sướng, và được chăm sóc cẩn thận. Này Sudinna thương! Con không biết bất cứ điều gì về khổ đau. Chỉ có sự chết thì mẹ và cha đành phải xa con một cách miễn cưỡng; làm sao trong lúc con đang còn sống, mẹ và cha lại cho phép con về việc rời nhà xuất gia, sống không nhà được?

7. Khi ấy, Sudinna Kalandaputta [nghĩ rằng]: “Mẹ và cha không cho phép ta về việc rời nhà xuất gia, sống không nhà”, rồi đã nằm xuống ngay tại chỗ ấy, ở trên nền đất không có trải lót [nói rằng]:

– Đối với con, hoặc là sẽ xảy ra cái chết ngay tại nơi đây, hoặc là sự xuất gia.

Sau đó, Sudinna Kalandaputta đã không ăn một bữa, đã không ăn hai bữa, đã không ăn ba bữa, đã không ăn bốn bữa, đã không ăn năm bữa, đã không ăn sáu bữa, đã không ăn bảy bữa.

8. Khi ấy, mẹ và cha của Sudinna Kalandaputta đã nói với Sudinna Kalandaputta điều này:

– Này Sudinna thương! Con chính là con trai một, yêu dấu, quý mến của mẹ và cha, được lớn lên trong sung sướng, và được chăm sóc cẩn thận. Này Sudinna thương! Con không biết bất cứ điều gì về khổ đau. Chỉ có sự chết thì mẹ và cha đành phải xa con một cách miễn cưỡng; làm sao trong lúc con đang còn sống, mẹ và cha lại cho phép con về việc rời nhà xuất gia, sống không nhà được? Này Sudinna thương! Con hãy đứng dậy, hãy ăn, hãy uống và hãy chơi đùa. Trong khi ăn, trong khi uống, trong khi chơi đùa, trong khi thọ hưởng các dục, trong khi làm các điều phước thiện, con có thể thỏa thích, chớ mẹ và cha không cho phép con về việc rời nhà xuất gia, sống không nhà.

Khi được nói như vậy, Sudinna Kalandaputta đã im lặng. Đến lần thứ nhì, ...(nt)... Đến lần thứ ba, mẹ và cha của Sudinna Kalandaputta đã nói với Sudinna Kalandaputta điều này:

– Này Sudinna thương! Con chính là con trai một, yêu dấu, quý mến của mẹ và cha, được lớn lên trong sung sướng và được chăm sóc cẩn thận. Này Sudinna thương! Con không biết bất cứ điều gì về khổ đau. Chỉ có sự chết thì mẹ và cha đành phải xa con một cách miễn cưỡng; làm sao trong lúc con đang còn sống, mẹ và cha lại cho phép con về việc rời nhà xuất gia, sống không nhà được? Này Sudinna thương! Con hãy đứng dậy, hãy ăn, hãy uống và hãy chơi đùa. Trong khi ăn, trong khi uống, trong khi chơi đùa, trong khi thọ hưởng các dục, trong khi làm các điều phước thiện, con có thể thỏa thích, chớ mẹ và cha không cho phép con về việc rời nhà xuất gia, sống không nhà.

Đến lần thứ ba, Sudinna Kalandaputta đã im lặng.

9. Sau đó, những người bạn của Sudinna Kalandaputta đã đi đến gặp Sudinna Kalandaputta, sau khi đến đã nói với Sudinna Kalandaputta điều này:

– Này Sudinna mến! Bạn chính là con trai một, yêu dấu, quý mến của mẹ và cha, được lớn lên trong sung sướng và được chăm sóc cẩn thận. Này Sudinna mến! Bạn không biết bất cứ điều gì về khổ đau. Chỉ có sự chết thì mẹ và cha đành phải xa bạn một cách miễn cưỡng; làm sao trong lúc bạn đang còn sống, mẹ và cha lại cho phép bạn về việc rời nhà xuất gia, sống không nhà được? Này Sudinna mến! Bạn hãy đứng dậy, hãy ăn, hãy uống và hãy chơi đùa. Trong khi ăn, trong khi uống, trong khi chơi đùa, trong khi thọ hưởng các dục, trong khi làm các điều phước thiện, bạn có thể thỏa thích, chớ mẹ và cha không cho phép bạn về việc rời nhà xuất gia, sống không nhà.

Khi được nói như vậy, Sudinna Kalandaputta đã im lặng. Đến lần thứ nhì, ...(nt) ... Đến lần thứ ba, những người bạn của Sudinna Kalandaputta đã nói với Sudinna Kalandaputta điều này:

– Này Sudinna thương! Bạn chính là ...(nt).

Đến lần thứ ba, Sudinna Kalandaputta đã im lặng.

10. Khi ấy, những người bạn của Sudinna Kalandaputta đã đi đến gặp mẹ và cha của Sudinna Kalandaputta, sau khi đến đã nói với mẹ và cha của Sudinna Kalandaputta điều này:

– Mẹ và cha à! Sudinna này nằm trên nền đất không có trải lót [nói rằng]: “Đối với tôi, hoặc là sẽ xảy ra cái chết ngay tại đây, hoặc là sự xuất gia.” Nếu mẹ và cha không cho phép Sudinna về việc rời nhà xuất gia, sống không nhà, anh ta sẽ đi đến cái chết ngay tại chỗ ấy. Vả lại, nếu mẹ và cha cho phép Sudinna về việc rời nhà xuất gia, sống không nhà, mẹ và cha sẽ còn nhìn thấy anh ta cho dù đã xuất gia. Nếu Sudinna không thỏa thích trong việc rời nhà xuất gia, sống không nhà, thì còn chốn nào khác cho anh ta đây? Anh ta sẽ quay trở về ngay tại chỗ này. Mẹ và cha hãy cho phép Sudinna về việc rời nhà xuất gia, sống không nhà đi.

– Các con thương! Mẹ và cha cho phép Sudinna về việc rời nhà xuất gia, sống không nhà.

Sau đó, những người bạn của Sudinna Kalandaputta đã đi đến gặp Sudinna Kalandaputta, sau khi đến đã nói với Sudinna Kalandaputta điều này:

– Này Sudinna mến! Hãy đứng dậy đi. Bạn đã được mẹ và cha cho phép về việc rời nhà xuất gia, sống không nhà.

11. Khi ấy, Sudinna Kalandaputta [nghĩ rằng]: “Nghe nói ta đã được mẹ và cha cho phép về việc rời nhà xuất gia, sống không nhà” nên mừng rỡ phấn chấn, vừa đứng dậy vừa dùng bàn tay phủi khắp mình mẩy. Sau đó nhiều ngày, Sudinna Kalandaputta đã phục hồi lại sức khỏe và đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Sudinna Kalandaputta đã nói với đức Thế Tôn điều này:

– Bạch Ngài, con đã được mẹ và cha cho phép về việc rời nhà xuất gia, sống không nhà. Bạch Ngài, xin đức Thế Tôn hãy [làm lễ] xuất gia cho con.

Rồi Sudinna Kalandaputta đã đạt được sự xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn, đã đạt được sự tu lên bậc trên. Khi đã được tu lên bậc trên không bao lâu, Đại đức Sudinna đã thọ trì và thực hành các đức hạnh đầu-đà có hình thức như vầy: Là vị ngụ ở rừng, là vị chuyên khất thực, là vị mặc y may bằng vải bị quăng bỏ,[2] là vị đi khất thực theo tuần tự từng nhà. Đại đức sống nương tựa vào ngôi làng nọ thuộc xứ Vajjī.

12. Vào lúc bấy giờ, xứ Vajjī có sự khan hiếm về vật thực, khó kiếm ăn, có dịch bệnh, thẻ vật thực được phân phối, không dễ sinh sống bằng sự ra sức khất thực. Khi ấy, Đại đức Sudinna đã khởi ý điều này: “Hiện nay, xứ Vajjī có sự khan hiếm về vật thực, khó kiếm ăn, có dịch bệnh, thẻ vật thực được phân phối, không dễ sinh sống bằng sự ra sức khất thực. Vả lại, nhiều quyến thuộc của ta ở trong thành Vesālī thì giàu sang, có nhiều của cải, nhiều tài sản, có vô số vàng bạc, vô số vật dụng và dồi dào lúa gạo. Hay là ta nên sống nương tựa vào quyến thuộc vậy? Do có liên quan đến ta, quyến thuộc sẽ ban phát các vật thí. Họ sẽ làm các điều phước thiện và các Tỳ-khưu sẽ nhận được lợi lộc, còn ta sẽ không bị khó nhọc về đồ ăn khất thực.”

13. Sau đó, Đại đức Sudinna đã thu xếp chỗ nằm ngồi, cầm y bát và ra đi về phía thành Vesālī. Theo tuần tự, Đại đức đã đến được thành Vesālī. Tại nơi ấy, trong thành Vesālī, Đại đức Sudinna trú ở Mahāvana. Quyến thuộc của Đại đức Sudinna đã nghe được rằng: “Nghe nói Sudinna, con trai của Kalanda đã đến thành Vesālī.” Họ đã đem lại biếu cho Đại đức Sudinna bữa ăn gồm sáu mươi nồi cơm. Khi ấy, Đại đức Sudinna đã phân chia sáu mươi nồi cơm ấy cho các Tỳ-khưu, rồi vào buổi sáng, đã mặc y, cầm y bát, đi vào làng Kalanda để khất thực. Trong khi đi tuần tự từng nhà để khất thực, Đại đức đã đi đến nhà của cha mình.

14. Vào lúc bấy giờ, người nữ tỳ của quyến thuộc của Đại đức Sudinna có ý định đổ đi món cháo chua đã để cách đêm. Khi ấy, Đại đức Sudinna đã nói với người nữ tỳ của quyến thuộc ấy điều này:

– Này chị gái, nếu vật ấy cần phải đổ bỏ thì hãy trút vào đây, trong bình bát của tôi.

Khi ấy, trong lúc đang trút món cháo chua đã để cách đêm ấy vào bình bát của Đại đức Sudinna, người nữ tỳ của quyến thuộc của Đại đức Sudinna đã nhận ra đặc điểm của các cánh tay, của các bàn chân và của giọng nói của Đại đức Sudinna.[3] Sau đó, người nữ tỳ của quyến thuộc của Đại đức Sudinna đã đi đến gặp mẹ của Đại đức Sudinna, sau khi đến đã nói với mẹ của Đại đức Sudinna điều này:

– Bẩm bà, bà nên biết là công tử Sudinna đã trở về.

– Này nô tỳ, nếu ngươi nói đúng, ta sẽ ban cho ngươi khỏi phận tôi tớ.

15. Vào lúc bấy giờ, Đại đức Sudinna [ngồi] tựa vào chân của vách tường nọ, rồi thọ thực món cháo chua đã để cách đêm ấy. Và người cha của Đại đức Sudinna, trong lúc đi công chuyện đã nhìn thấy Đại đức Sudinna [ngồi] tựa vào chân của vách tường nọ đang thọ thực món cháo chua đã để cách đêm ấy. Sau khi nhìn thấy ông đã đi đến gần Đại đức Sudinna, sau khi đến đã nói với Đại đức Sudinna điều này:

– Này Sudinna thương! Lẽ nào con lại ăn món cháo chua đã để cách đêm? Này Sudinna thương! Hay là con nên đi về nhà mình đi?

– Này gia chủ, tôi đã đi đến nhà của ông rồi. Từ nơi đó mà có được món cháo chua đã để cách đêm này.

Khi ấy, người cha của Đại đức Sudinna đã nắm lấy cánh tay của Đại đức Sudinna và nói với Đại đức Sudinna điều này:

– Này Sudinna thương, hãy đi! Chúng ta sẽ đi về nhà.

Sau đó, Đại đức Sudinna đã đi đến nhà của cha mình, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, người cha của Đại đức Sudinna đã nói với Đại đức Sudinna điều này:

– Này Sudinna thương, con hãy ăn đi!

– Này gia chủ, thôi đi. Việc thọ thực ngày hôm nay của tôi đã hoàn tất.

– Này Sudinna thương! Vậy con hãy nhận lời bữa ăn vào ngày mai.

Đại đức Sudinna đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Sau đó, Đại đức Sudinna đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.

16. Sau đó, khi tàn đêm ấy, mẹ của Đại đức Sudinna đã cho phủ lên mặt đất bằng phân bò tươi, rồi bảo người chất hai đống gồm một vàng, một bạc. Các đống ấy đã lớn đến mức khiến người đứng ở phía bên này không nhìn thấy người đứng ở phía bên kia và người đứng ở phía bên kia không nhìn thấy người đứng ở phía bên này. Sau khi đã cho che lại các đống ấy bằng những tấm thảm, cho sắp đặt chỗ ngồi ở giữa và cho che màn xung quanh, mẹ của Đại đức Sudinna đã bảo người vợ cũ của Đại đức Sudinna rằng:

– Này con dâu, như thế thì khi trang điểm với đồ trang sức nào mà con đã được con trai Sudinna yêu thương, quý mến thì con hãy trang điểm với đồ trang sức ấy.

– Thưa mẹ, xin vâng.

Người vợ cũ của Đại đức Sudinna đã trả lời mẹ của Đại đức Sudinna.

17. Sau đó, vào buổi sáng, Đại đức Sudinna đã mặc y, cầm y bát rồi đi đến nhà của cha mình, sau khi đến đã ngồi xuống ở chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, cha của Đại đức Sudinna đã đi đến gặp Đại đức Sudinna, sau khi đến đã cho mở hai đống ấy ra rồi đã nói với Đại đức Sudinna điều này:

– Này Sudinna thương! Phần này là vật hồi môn thuộc người nữ là của mẹ con, phần kia là của cha, phần kia là của ông nội. Này Sudinna thương! Con có thể quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thường để thọ hưởng của cải và làm các điều phước thiện được mà. Này Sudinna thương, hãy quay về đi con! Hãy quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thường, hãy thọ hưởng của cải và làm các điều phước thiện đi.

– Cha à! Tôi không thể nào, tôi không dám. Tôi đang thỏa thích thực hành Phạm hạnh.

Đến lần thứ nhì, ...(nt)... Đến lần thứ ba, cha của Đại đức Sudinna đã nói với Đại đức Sudinna điều này:

– Này Sudinna thương! Phần này là vật hồi môn thuộc người nữ là của mẹ con, phần kia là của cha, phần kia là của ông nội. Này Sudinna thương! Con có thể quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thường để thọ hưởng của cải và làm các điều phước thiện được mà. Này Sudinna thương! Hãy quay về đi con. Hãy quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thường, hãy thọ hưởng của cải và làm các điều phước thiện đi.

– Này gia chủ, nếu gia chủ không quá căng thẳng thì chúng ta nên bàn về điều ấy.

– Này Sudinna thương, hãy nói đi!

– Này gia chủ, nếu vậy thì hãy bảo làm những bao tải thật lớn, cho đổ đầy vàng bạc vào, cho đưa lên các xe kéo hàng, rồi nhận chìm ở giữa sông Gaṅgā. Điều ấy có lý do là gì? Này gia chủ, bởi vì từ đó sẽ là nguyên nhân khiến ông có sự sợ hãi, hoặc có sự kinh hoàng, hoặc có lông dựng đứng, hoặc là sự gìn giữ; điều ấy sẽ không có cho ông nữa.

Khi được nói như thế, người cha của Đại đức Sudinna đã tỏ ra không hài lòng:

– Tại sao con trai Sudinna lại nói như thế?

18. Sau đó, cha của Đại đức Sudinna đã bảo người vợ cũ của Đại đức Sudinna rằng:

– Này con dâu, nếu vậy thì con cũng hãy nài nỉ. Có lẽ con trai Sudinna sẽ làm theo lời con.

Khi ấy, người vợ cũ của Đại đức Sudinna đã ôm lấy hai bàn chân của Đại đức Sudinna và đã nói với Đại đức Sudinna điều này:

– Công tử ơi, các nàng tiên nữ ấy như thế nào khiến chàng thực hành Phạm hạnh vì các nàng ấy vậy?

– Này chị gái, tôi thực hành Phạm hạnh không phải vì các nàng tiên nữ.

19. Khi ấy, người vợ cũ của Đại đức Sudinna [nghĩ rằng]: “Từ nay, công tử Sudinna xưng hô với ta bằng tiếng chị gái”, nên đã ngất đi rồi ngã xuống ngay tại chỗ ấy. Sau đó, Đại đức Sudinna đã nói với cha điều này:

– Này gia chủ, nếu vật thực sẽ được bố thí thì hãy bố thí đi. Ông chớ có quấy rầy chúng ta nữa.

– Này Sudinna thương, hãy ăn đi!

Khi ấy, mẹ và cha của Đại đức Sudinna đã tự tay làm hài lòng và toại ý Đại đức Sudinna với thức ăn thượng hạng loại cứng, loại mềm. Sau đó, khi Đại đức Sudinna đã thọ thực xong, bàn tay đã rời bình bát, mẹ của Đại đức Sudinna đã nói với Đại đức Sudinna điều này:

– Này Sudinna thương! Gia đình này thì giàu sang, có nhiều của cải, nhiều tài sản, có vô số vàng bạc, vô số vật dụng và dồi dào lúa gạo. Này Sudinna thương! Con có thể quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thường để thọ hưởng của cải và làm các điều phước thiện được mà. Này Sudinna thương, hãy quay về đi con! Hãy quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thường, hãy thọ hưởng của cải và làm các điều phước thiện đi.

– Mẹ à! Tôi không thể nào, tôi không dám. Tôi đang thỏa thích thực hành Phạm hạnh.

Đến lần thứ nhì, ...(nt)... Đến lần thứ ba, mẹ của Đại đức Sudinna đã nói với Đại đức Sudinna điều này: 

– Này Sudinna thương! Gia đình này thì giàu sang, có nhiều của cải, nhiều tài sản, có vô số vàng bạc, vô số vật dụng và dồi dào lúa gạo. Này Sudinna thương! Chính vì điều ấy, con hãy để lại chủng tử. Chớ để các Licchavi đoạt lấy tài sản không người thừa tự của chúng ta.

– Mẹ à! Điều này tôi có thể làm được.

– Này Sudinna thương! Hiện nay con ngụ ở đâu vậy?

– Mẹ à! Ở Mahāvana.

Sau đó, Đại đức Sudinna đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.

20. Sau đó, mẹ của Đại đức Sudinna đã bảo người vợ cũ của Đại đức Sudinna rằng:

– Này con dâu, nếu vậy thì khi nào đến thời kỳ, kinh nguyệt của con xuất hiện, khi ấy con hãy cho mẹ hay.

– Thưa mẹ, xin vâng.

Người vợ cũ của Đại đức Sudinna đã trả lời mẹ của Đại đức Sudinna.

Sau đó chẳng bao lâu, người vợ cũ của Đại đức Sudinna đã đến thời kỳ, nàng đã có kinh nguyệt. Khi ấy, người vợ cũ của Đại đức Sudinna đã nói với mẹ của Đại đức Sudinna điều này:

– Thưa mẹ, con đã đến thời kỳ, kinh nguyệt của con đã xuất hiện.

– Này con dâu, như thế thì khi trang điểm với đồ trang sức nào mà con đã được con trai Sudinna yêu thương, quý mến thì con hãy trang điểm với đồ trang sức ấy.

– Thưa mẹ, xin vâng.

Người vợ cũ của Đại đức Sudinna đã trả lời mẹ của Đại đức Sudinna.

Sau đó, mẹ của Đại đức Sudinna đã đưa người vợ cũ của Đại đức Sudinna đi đến Mahāvana gặp Đại đức Sudinna, sau khi đến đã nói với Đại đức Sudinna điều này:

– Này Sudinna thương! Gia đình này thì giàu sang, có nhiều của cải, nhiều tài sản, có vô số vàng bạc, vô số vật dụng và dồi dào lúa gạo. Này Sudinna thương! Con có thể quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thường để thọ hưởng của cải và làm các điều phước thiện được mà. Này Sudinna thương, hãy quay về đi con! Hãy quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thường, hãy thọ hưởng của cải và làm các điều phước thiện đi.

– Mẹ à! Tôi không thể nào, tôi không dám. Tôi đang thỏa thích thực hành Phạm hạnh.

Đến lần thứ nhì, ...(nt)... Đến lần thứ ba, mẹ của Đại đức Sudinna đã nói với Đại đức Sudinna điều này:

– Này Sudinna thương! Gia đình này thì giàu sang, có nhiều của cải, nhiều tài sản, có vô số vàng bạc, vô số vật dụng và dồi dào lúa gạo. Này Sudinna thương! Chính vì điều ấy, con hãy để lại chủng tử. Chớ để các Licchavi đoạt lấy tài sản không người thừa tự của chúng ta.

21. – Mẹ à! Điều này tôi có thể làm được.

Rồi vị ấy đã nắm lấy cánh tay của người vợ cũ đi vào Mahāvana. Trong khi điều học chưa được quy định, vị ấy không nhận thức được điều nguy hại nên đã tiến hành việc đôi lứa với người vợ cũ ba lần. Do việc ấy, nàng ta đã mang thai.

Chư thiên ở địa cầu đã đồn đãi lời rằng: “Ngài ơi, hội chúng Tỳ-khưu quả thật không có sự ô uế, không bị điều tai họa, nay Sudinna Kalandaputta đã gây nên sự ô uế, đã gây nên điều tai họa!” Sau khi nghe được tiếng đồn của chư thiên ở địa cầu, chư thiên ở cõi Tứ Đại Thiên Vương đã đồn đãi lời rằng: ...(nt)... chư thiên ở cõi Đạo-lợi ...(nt)... chư thiên ở cõi Dạ-ma ...(nt)... chư thiên ở cõi Đẩu-suất ...(nt)... chư thiên ở cõi Hóa Lạc ...(nt)... chư thiên ở cõi Tha Hóa Tự Tại ...(nt)... chư thiên thuộc hàng Phạm thiên đã đồn đãi lời rằng: “Ngài ơi, hội chúng Tỳ-khưu quả thật không có sự ô uế, không bị điều tai họa, nay Sudinna Kalandaputta đã gây nên sự ô uế, đã gây nên điều tai họa!” Vào thời khắc ấy, vào giây phút ấy, lời đồn đãi như thế ấy đã đi đến các cõi trời Phạm thiên.

22. Sau đó, khi bào thai ấy đã được phát triển đầy đủ, người vợ cũ của Đại đức Sudinna đã sanh con trai. Khi ấy, những người bạn của Đại đức Sudinna đã đặt tên cho đứa bé trai là “Chủng Tử”, đã đặt tên cho người vợ cũ của Đại đức Sudinna là “Mẹ của Chủng Tử” và đã đặt tên cho Đại đức Sudinna là “Cha của Chủng Tử.” Thời gian sau, cả hai mẹ con ấy đã rời nhà xuất gia, sống không nhà và đã chứng đắc phẩm vị A-la-hán.[4]

 23. Sau đó, Đại đức Sudinna đã có sự ăn năn, đã có nỗi ân hận: “Thật là điều không lợi ích đã có cho ta! Thật là điều lợi ích đã không có cho ta! Ta đã đạt được điều xấu! Ta đã không đạt được điều tốt! Bởi vì ta đây đã xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy lại không thể thực hành Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn đến cuối cuộc đời!” Do chính sự ăn năn ấy và do nỗi ân hận ấy, vị ấy đã trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân, tâm trở nên lãnh đạm, trì trệ, khổ sở, buồn bã, ăn năn và có vẻ thờ thẫn.

24. Khi ấy, những vị Tỳ-khưu, bạn của Đại đức Sudinna đã nói với Đại đức Sudinna điều này:

– Này Đại đức Sudinna, trước đây, Đại đức có sắc tướng, các căn rạng rỡ, sắc diện an tịnh, màu da trong sáng. Hiện nay, trong lúc này, Đại đức đây lại trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân, tâm trở nên lãnh đạm, trì trệ, khổ sở, buồn bã, ăn năn và có vẻ thờ thẫn. Này Đại đức Sudinna, không lẽ Đại đức không thỏa thích thực hành Phạm hạnh hay sao?

– Này các Đại đức, không phải tôi không thỏa thích thực hành Phạm hạnh mà tôi đã tạo nên ác nghiệp, tôi đã thực hiện việc đôi lứa với người vợ cũ. Này các Đại đức, tôi đây đã có sự ăn năn, đã có nỗi ân hận: “Thật là điều không lợi ích đã có cho ta! Thật là điều lợi ích đã không có cho ta! Ta đã đạt được điều xấu! Ta đã không đạt được điều tốt! Bởi vì ta đây đã xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy lại không thể thực hành Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn đến cuối cuộc đời!”

25. – Này Đại đức Sudinna, Đại đức có sự ăn năn là phải lẽ, có nỗi ân hận là phải lẽ. Bởi vì Đại đức đã xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy lại không thể thực hành Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn đến cuối cuộc đời.

26. Này Đại đức, chẳng phải đức Thế Tôn bằng nhiều phương thức đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn tham ái chứ không phải để đưa đến tham ái, đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn ràng buộc chứ không phải để đưa đến sự ràng buộc, đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn chấp thủ chứ không phải để đưa đến sự chấp thủ hay sao?

27. Này Đại đức, ở đây, trong khi đức Thế Tôn thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn tham ái thì Đại đức lại nghĩ đến tham ái, thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn ràng buộc thì Đại đức lại nghĩ đến sự ràng buộc, thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn chấp thủ thì Đại đức lại nghĩ đến sự chấp thủ.

28. Này Đại đức, chẳng phải đức Thế Tôn bằng nhiều phương thức đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn tham ái trong các ái, để đưa đến sự không còn đam mê trong các nỗi đam mê, để kềm chế các sự khao khát, để trừ diệt các sự vướng mắc, để cắt đứt vòng tái sanh, để diệt tận ái, để ly tham, để đưa đến sự tịch diệt, để đưa đến Niết-bàn hay sao?

29. Này Đại đức, chẳng phải đức Thế Tôn bằng nhiều phương thức đã đề cập đến sự từ bỏ các dục, đã đề cập đến sự hiểu rõ về các dục tưởng, đã đề cập đến sự kềm chế các nỗi khao khát về dục, đã đề cập đến sự trừ diệt các dục tầm, đã đề cập đến sự lắng dịu của các nỗi thôi thúc do dục vọng hay sao?

30. Này Đại đức, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. Này Đại đức, hơn nữa, chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi [niềm tin] của một số người đã có đức tin.

31. Sau đó, khi đã khiển trách Đại đức Sudinna bằng nhiều phương thức, các vị Tỳ-khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng Tỳ-khưu lại và đã hỏi Đại đức Sudinna rằng:

– Này Sudinna, nghe nói ngươi thực hiện việc đôi lứa với người vợ cũ, có đúng không vậy?

– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

32. – Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm! Này kẻ rồ dại, tại sao ngươi đã xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy lại không thể thực hành Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn đến cuối cuộc đời?

33. Này kẻ rồ dại, không phải Ta bằng nhiều phương thức đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn tham ái chứ không phải để đưa đến tham ái, đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn ràng buộc chứ không phải để đưa đến sự ràng buộc, đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn chấp thủ chứ không phải để đưa đến sự chấp thủ hay sao?

34. Này kẻ rồ dại, thế mà ở đây, trong khi Ta thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn tham ái thì ngươi lại nghĩ đến tham ái, thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn ràng buộc thì ngươi lại nghĩ đến sự ràng buộc, thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn chấp thủ thì ngươi lại nghĩ đến sự chấp thủ.

35. Này kẻ rồ dại, không phải Ta bằng nhiều phương thức đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn tham ái trong các ái, để đưa đến sự không còn đam mê trong các nỗi đam mê, để kềm chế sự khao khát, để trừ diệt sự vướng mắc, để cắt đứt vòng tái sanh, để diệt tận ái, để ly tham, để đưa đến sự tịch diệt, để đưa đến Niết-bàn hay sao?

36. Này kẻ rồ dại, không phải Ta bằng nhiều phương thức đã đề cập đến sự từ bỏ các dục, đã đề cập đến sự hiểu rõ về các dục tưởng, đã đề cập đến sự kềm chế các nỗi khao khát về dục, đã đề cập đến sự trừ diệt các dục tầm, đã đề cập đến sự lắng dịu của các nỗi thôi thúc do dục vọng hay sao?

37. Này kẻ rồ dại, thà ngươi đặt dương vật vào trong miệng của con rắn có nọc độc khủng khiếp còn là điều cao thượng, nhưng đặt dương vật vào trong âm vật của người nữ là không [cao thượng]. Này kẻ rồ dại, thà ngươi đặt dương vật vào trong miệng của con hắc xà còn là điều cao thượng, nhưng đặt dương vật vào trong âm vật của người nữ là không [cao thượng]. Này kẻ rồ dại, thà ngươi đặt dương vật vào trong hố than được đốt cháy có ngọn lửa sáng rực còn là điều cao thượng, chớ đặt dương vật vào trong âm vật của người nữ là không [cao thượng]. Điều ấy có lý do như thế nào? Này kẻ rồ dại, bởi vì do nguyên nhân kia,[5] ngươi có thể đi đến cái chết hoặc khổ gần như chết, nhưng không vì nguyên nhân kia, khi tan rã thân xác và chết đi, ngươi lại có thể bị sanh vào bất hạnh, cõi khổ, đọa xứ, địa ngục. Này kẻ rồ dại, quả thật do nguyên nhân này,[6] khi tan rã thân xác và chết đi, ngươi có thể bị sanh vào bất hạnh, cõi khổ, đọa xứ, địa ngục.

38. Này kẻ rồ dại, thế mà ở đây lại là ngươi, tức là việc ngươi bị vướng vào việc kết hợp của hai người, theo từng cặp, ở nơi kín đáo, là việc làm không tốt đẹp, là việc làm của các dân làng, là việc làm của những người thấp kém, là xấu xa, kết cuộc phải dùng nước tẩy rửa. Này kẻ rồ dại, đối với nhiều pháp bất thiện, ngươi là người vi phạm đầu tiên, trước tất cả. Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. Này kẻ rồ dại, hơn nữa, chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi [niềm tin] của một số người đã có đức tin.

39. Sau đó, khi đã khiển trách Đại đức Sudinna bằng nhiều phương thức, đức Thế Tôn đã chê bai về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, sự khó khăn trong việc ăn uống, sự tầm cầu quá nhiều, sự không biết đủ, sự kết phe nhóm, sự biếng nhác; và bằng nhiều phương thức, Ngài đã ngợi khen về sự dễ dàng trong việc cấp dưỡng, sự dễ dàng trong việc ăn uống, sự ít tầm cầu, sự biết đủ, sự từ khước, sự tiết chế, sự hài hòa, sự đoạn giảm, sự ra sức nỗ lực. Ngài đã nói pháp thoại thích đáng và phù hợp cho các Tỳ-khưu rồi đã bảo các Tỳ-khưu rằng:

40. – Này các Tỳ-khưu, như thế thì Ta sẽ quy định điều học cho các Tỳ-khưu vì mười điều lợi ích: Nhằm sự tốt đẹp cho hội chúng, nhằm sự an lạc cho hội chúng, nhằm việc trấn áp những nhân vật ác xấu, nhằm sự lạc trú của các Tỳ-khưu hiền thiện, nhằm ngăn ngừa các lậu hoặc trong hiện tại, nhằm sự trừ diệt các lậu hoặc trong tương lai, nhằm đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, nhằm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin, nhằm sự tồn tại của Chánh pháp[7] và nhằm sự hỗ trợ của Luật. Và này các Tỳ-khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

Vị Tỳ-khưu nào thực hiện việc đôi lứa là vị phạm tội Pārājika, không được cộng trú.[8]

Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các Tỳ-khưu như thế.

[Sự quy định căn bản]

Dứt tụng phẩm về Sudinna.

--oo0oo--

 

CHUYỆN CON KHỈ CÁI

1. Vào lúc bấy giờ, tại Mahāvana ở Vesālī, có vị Tỳ-khưu nọ dùng thức ăn dụ dỗ con khỉ cái rồi thực hiện việc đôi lứa với nó. Khi ấy, vào buổi sáng, vị Tỳ-khưu ấy đã mặc y, cầm y bát rồi đi vào thành Vesālī để khất thực.

2. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị Tỳ-khưu trong lúc đi dạo quanh các chỗ trú ngụ đã đi đến trú xá của vị Tỳ-khưu ấy. Con khỉ cái ấy đã nhìn thấy các vị Tỳ-khưu ấy từ đàng xa đang đi lại, sau khi thấy đã đi đến gần các vị Tỳ-khưu ấy, sau khi đến gần đã lúc lắc hông ở phía trước các vị Tỳ-khưu ấy, đã lúc lắc đuôi, đã đưa hông ra và đã làm dấu hiệu. Khi ấy, các vị Tỳ-khưu ấy đã khởi ý điều này: “Không còn nghi ngờ gì nữa, vị Tỳ-khưu ấy thực hiện việc đôi lứa với con khỉ cái này” rồi đã nấp vào ở một bên. Sau đó, vị Tỳ-khưu ấy sau khi đi khất thực ở trong thành Vesālī, đã mang đồ ăn khất thực quay trở về.

3. Khi ấy, con khỉ cái ấy đã đi đến gần vị Tỳ-khưu ấy. Rồi vị Tỳ-khưu ấy, sau khi thọ dụng đồ khất thực ấy một phần, đã cho con khỉ cái ấy một phần. Sau đó, khi đã ăn xong, con khỉ cái ấy đã đưa hông ra cho vị Tỳ-khưu ấy. Khi ấy, vị Tỳ-khưu ấy thực hiện việc đôi lứa với con khỉ cái ấy.

4. Rồi các vị Tỳ-khưu ấy đã nói với vị Tỳ-khưu ấy điều này:

– Này Đại đức, chẳng phải điều học đã được đức Thế Tôn quy định hay sao? Này Đại đức, tại sao Đại đức lại thực hiện việc đôi lứa với con khỉ cái?

– Này các Đại đức, đúng vậy. Điều học đã được đức Thế Tôn quy định và điều ấy là với người nữ chứ không phải với thú cái.

– Này Đại đức, chẳng phải điều ấy là đúng như thế hay sao? Này Đại đức, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm! Này Đại đức, tại sao Đại đức sau khi xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy lại không thể thực hành Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn đến cuối cuộc đời? Này Đại đức, chẳng phải đức Thế Tôn bằng nhiều phương thức đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn tham ái chứ không phải để đưa đến tham ái, ...(nt)... đã đề cập đến sự lắng dịu của các nỗi thôi thúc do dục vọng hay sao? Này Đại đức, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. Này Đại đức, hơn nữa, chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi [niềm tin] của một số người đã có đức tin.

Sau đó, khi đã khiển trách vị Tỳ-khưu ấy bằng nhiều phương thức, các vị Tỳ-khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

5. Khi đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng Tỳ-khưu lại và đã hỏi vị Tỳ-khưu ấy rằng:

– Này Tỳ-khưu, nghe nói ngươi đã thực hiện việc đôi lứa với con khỉ cái, có đúng không vậy?

– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

– Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm! Này kẻ rồ dại, tại sao ngươi sau khi xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy lại không thể thực hành Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn đến cuối cuộc đời? Này kẻ rồ dại, không phải Ta bằng nhiều phương thức đã thuyết giảng pháp để đưa đến sự không còn tham ái chứ không phải để đưa đến tham ái, ...(nt)... đã đề cập đến sự lắng dịu của các nỗi thôi thúc do dục vọng hay sao?

6. Này kẻ rồ dại, thà ngươi đặt dương vật vào trong miệng của con rắn có nọc độc khủng khiếp còn là điều cao thượng, nhưng đặt dương vật vào trong âm vật của con khỉ cái là không [cao thượng]. Này kẻ rồ dại, thà ngươi đặt dương vật vào trong miệng của con hắc xà còn là điều cao thượng, nhưng đặt dương vật vào trong âm vật của con khỉ cái là không [cao thượng]. Này kẻ rồ dại, thà ngươi đặt dương vật vào trong hố than được đốt cháy có ngọn lửa sáng rực còn là điều cao thượng, chớ đặt dương vật vào trong âm vật của con khỉ cái là không [cao thượng]. Điều ấy có lý do như thế nào? Này kẻ rồ dại, bởi vì do nguyên nhân kia,[9] ngươi có thể đi đến cái chết hoặc khổ gần như chết, nhưng không vì nguyên nhân kia, khi tan rã thân xác và chết đi, ngươi lại có thể bị sanh vào bất hạnh, cõi khổ, đọa xứ, địa ngục. Này kẻ rồ dại, quả thật do nguyên nhân này,[10] khi tan rã thân xác và chết đi, ngươi có thể bị sanh vào bất hạnh, cõi khổ, đọa xứ, địa ngục.

7. Này kẻ rồ dại, thế mà ở đây lại là ngươi, tức là việc ngươi bị vướng vào việc kết hợp của hai người, theo từng cặp, ở nơi kín đáo, là việc làm không tốt đẹp, là việc làm của các dân làng, là việc làm của những người thấp kém, là xấu xa, kết cuộc phải dùng nước tẩy rửa. Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. Này kẻ rồ dại, hơn nữa, chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi [niềm tin] của một số người đã có đức tin.

8. Sau đó, khi đã khiển trách vị Tỳ-khưu ấy bằng nhiều phương thức, đức Thế Tôn đã chê bai về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, sự khó khăn trong việc ăn uống, sự tầm cầu quá nhiều, sự không biết đủ, sự kết phe nhóm, sự biếng nhác; và bằng nhiều phương thức, Ngài đã ngợi khen về sự dễ dàng trong việc cấp dưỡng, sự dễ dàng trong việc ăn uống, sự ít tầm cầu, sự biết đủ, sự từ khước, sự tiết chế, sự hài hòa, sự đoạn giảm, sự ra sức nỗ lực. Ngài đã nói pháp thoại thích đáng và phù hợp cho các Tỳ-khưu rồi đã bảo các Tỳ-khưu rằng:

9. – Này các Tỳ-khưu, như thế thì Ta sẽ quy định điều học cho các Tỳ-khưu vì mười điều lợi ích: Nhằm sự tốt đẹp cho hội chúng, nhằm sự an lạc cho hội chúng, nhằm việc trấn áp những nhân vật ác xấu, nhằm sự lạc trú của các Tỳ-khưu hiền thiện, nhằm ngăn ngừa các lậu hoặc trong hiện tại, nhằm sự trừ diệt các lậu hoặc trong tương lai, nhằm đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, nhằm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin, nhằm sự tồn tại của Chánh pháp, và nhằm sự hỗ trợ của Luật. Và này các Tỳ-khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

Vị Tỳ-khưu nào thực hiện việc đôi lứa ngay cả với loài thú cái là vị phạm tội Pārājika, không được cộng trú.

Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các Tỳ-khưu như thế.

[Sự quy định lần hai]

Dứt chuyện con khỉ cái.

--oo0oo--

 

Chú thích

[1] Dịch sát từ sẽ là “Sau khi nhìn thấy, điều này đã khởi đến anh ta: ...”

[2] Y paṃsukūla: Y được may bằng vải dơ, bị người ta quăng bỏ, thông thường là vải quấn tử thi, được tìm thấy ở bãi tha ma (ND).

[3] Ngài Buddhaghosa giải thích ở Chú giải Samantapāsādikā rằng: Đã 8 năm trôi qua nên người nữ tỳ không thể nhận ra Đại đức Sudinna mà chỉ nhận biết qua các đặc điểm của tay, chân và giọng nói. Thêm vào đó, còn cho biết vị Sudinna đã xuất gia vào năm thứ 12 của đức Thế Tôn và thời điểm xảy ra câu chuyện này là năm thứ 20 (VinA. I. 208).

[4] Theo ngài Buddhaghosa cho biết, hai mẹ con đã xuất gia sau đó khoảng 7 hoặc 8 năm (VinA. I. 215).

[5] Là việc đặt dương vật vào trong miệng của con rắn có nọc độc khủng khiếp, vào trong miệng của con hắc xà, vào trong hố than được đốt cháy có ngọn lửa sáng rực (ND).

[6] Là việc đặt dương vật vào trong âm vật của người nữ (ND).

[7] Chánh pháp (Saddhamma): Ngài Buddhaghosa giải thích Saddhamma gồm có ba phần: Pariyattisaddhamma (pháp học) gồm tất cả các lời dạy của đức Phật đã được kết tập thành Tam tạng; Paṭipattisaddhamma (pháp hành) là 13 pháp đầu-đà, 14 pháp hành, 82 phận sự chính, Giới, Định và Minh sát; Adhigamasaddhamma (pháp đắc chứng) là 4 Đạo, 4 Quả và Niết-bàn (VinA. I. 225). Giải thích về 82 phận sự chính, Ṭīkā (Sớ giải) ghi rằng: 66 phận sự của vị hành Parivāsa (bắt đầu với điều: Không nên ban phép tu lên bậc trên, ..., không nên đi kinh hành ở đường kinh hành trong khi vị Tỳ-khưu trong sạch đi kinh hành ở trên mặt đất); không ngụ chung với 5 hạng Tỳ-khưu (vị cũng thực hành Parivāsa nhưng thâm niên hơn, vị xứng đáng [thực hành] trở lại từ đầu, vị Tỳ-khưu xứng đáng hành mānatta, vị đang thực hành Mānatta, vị xứng đáng sự giải tội) tính là 5 điều, thành 71; không nên tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, ..., sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các vị Tỳ-khưu trong sạch, tính là 1 điều, thành 72; không nên bôi nhọ vị Tỳ-khưu trong sạch với sự hư hỏng về giới, v.v... Tính là 10 điều; tổng cộng là 82 phận sự.

[8] Từ “bất cộng trụ” đã được sử dụng quen thuộc khi đề cập đến tội Pārājika. Thật ra, “bất cộng trụ” là từ dịch của asaṃvāso trong câu “ayampi pārājiko hoti asaṃvāso”, chứ không phải của Pārājika. Pārājika được xem là tên của tội, còn asaṃvāso có thể xem như là một hình thức xử lý tội Pārājika, là không được sống chung và tiến hành các hành sự như là lễ Uposatha, lễ Parāraṇā, v.v... Ngài Buddhaghosa chỉ ra động từ liên quan là “parājeti = khuất phục, đánh bại, chế ngự, chiến thắng” và giải thích rằng: Vị “pārājiko” là vị “parājito” (parājito là quá khứ phân từ thể thụ động của parājeti, có nghĩa là “bị khuất phục”, “bị đánh bại”, “bị chế ngự”). Như vậy, Pārājika có nghĩa là “kẻ thất trận, kẻ bại trận, người thua cuộc”, và được sử dụng cho tên của một loại tội cực nặng trong Giới bổn (Pātimokkha) của Tỳ-khưu, gồm 4 điều được trình bày trong chương này. Chúng tôi giữ nguyên từ Pārājika, không dịch.

[9] Nguyên nhân kia đã được giải thích ở phần trước.

[10] Nguyên nhân này là việc đặt dương vật vào trong âm vật của con khỉ cái (ND).

--oo0oo--

 

TỤNG PHẨM “ĐƯỢC CHE PH

1. Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị Tỳ-khưu nhóm Vajjiputtaka, trú xứ Vesālī đã thọ thực theo ý thích, ngủ theo ý thích, tắm theo ý thích. Sau khi đã thọ thực theo ý thích, sau khi đã ngủ theo ý thích, sau khi đã tắm theo ý thích, sau khi đã tác ý không chơn chánh, các vị ấy đã thực hiện việc đôi lứa khi chưa lìa bỏ sự học tập và chưa bày tỏ lòng yếu nhược.

Thời gian sau đó, các vị ấy bị tác động bởi sự bất hạnh của quyến thuộc, bởi sự bất hạnh về tài sản, bởi sự bất hạnh về bệnh hoạn nên đã đi đến gặp Đại đức Ānanda và nói như vầy:

– Thưa ngài Ānanda, chúng tôi không phải là những người chê bai đức Phật, không phải là những người chê bai giáo pháp, không phải là những người chê bai hội chúng. Thưa ngài Ānanda, chúng tôi là những người chê bai chính mình, là những người không chê bai kẻ khác. Chính chúng tôi không có may mắn, chúng tôi có phước báu ít ỏi, chúng tôi đây sau khi xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy lại không thể thực hành Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn đến cuối cuộc đời. Thưa ngài Ānanda, nếu như giờ đây chúng tôi có thể đạt được sự xuất gia trong sự chứng minh của đức Phật, có thể đạt được sự tu lên bậc trên, thì giờ đây chúng tôi cũng có thể là những người hành Minh sát, có thể sống gắn bó với sự tu tập về các thiện pháp, tức là các pháp có liên quan đến sự giác ngộ vào đầu đêm và cuối đêm. Thưa ngài Ānanda, lành thay! Xin ngài hãy trình sự việc này lên đức Thế Tôn.

– Này các Đại đức, được rồi.

Nghe theo các vị nhóm Vajjiputtaka trú xứ Vesālī, Đại đức Ānanda đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

2. – Này Ānanda, việc Như Lai có thể hủy bỏ điều học Pārājika đã được quy định cho các đệ tử vì lý do của các vị Vajjī hoặc của những người con trai của các vị Vajjī là điều không có cơ sở và không hợp lý.

Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã nói pháp thoại rồi bảo các Tỳ-khưu rằng:

– Này các Tỳ-khưu, vị Tỳ-khưu nào khi chưa lìa bỏ sự học tập và chưa bày tỏ lòng yếu nhược mà thực hiện việc đôi lứa thì vị ấy không được tu lên bậc trên trong tương lai. Và này các Tỳ-khưu, vị Tỳ-khưu nào sau khi lìa bỏ sự học tập và sau khi tuyên bố sự yếu nhược rồi thực hiện việc đôi lứa thì vị ấy có thể được tu lên bậc trên trong tương lai. Và này các Tỳ-khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

3.Vị Tỳ-khưu nào thọ trì sự học tập và lối sống của các Tỳ-khưu, khi chưa lìa bỏ sự học tập và chưa bày tỏ lòng yếu nhược, mà thực hiện việc đôi lứa ngay cả với loài thú cái là vị phạm tội Pārājika, không được cộng trú.

[Sự quy định lần ba]

4. Vị nào: Là bất cứ vị nào có mối quan hệ như vầy, có giai cấp như vầy, có tên như vầy, có họ như vầy, có giới hạnh như vầy, có trú xứ như vầy, có nơi đi lại như vầy, là vị Trưởng lão [trên 10 năm Tỳ-khưu], hoặc là vị mới tu [dưới 5 năm], hoặc là vị trung niên [trên 5 năm]; vị ấy được gọi là “vị nào.”

5. Tỳ-khưu: “Vị đi khất thực” là Tỳ-khưu. “Vị chấp nhận việc đi khất thực” là Tỳ-khưu. “Vị mặc y đã được cắt rời” là Tỳ-khưu. Là Tỳ-khưu do sự thừa nhận. Là Tỳ-khưu do tự mình xác nhận. Là Tỳ-khưu khi được [đức Phật] nói rằng: “Này Tỳ-khưu, hãy đi đến.” “Vị đã tu lên bậc trên bằng Tam quy” là Tỳ-khưu. “Vị hiền thiện” là Tỳ-khưu. “Vị có thực chất” là Tỳ-khưu. “Vị Thánh Hữu học” là Tỳ-khưu. “Vị Thánh Vô học” là Tỳ-khưu. “Vị đã được tu lên bậc trên với hội chúng hợp nhất bằng hành sự có lời thông báo đến lần thứ tư, không sai sót, đáng được duy trì” là Tỳ-khưu. Ở đây, vị Tỳ-khưu đã được tu lên bậc trên với hội chúng hợp nhất, bằng hành sự có lời thông báo đến lần thứ tư, không sai sót, đáng được duy trì, vị này là “vị Tỳ-khưu” được đề cập trong ý nghĩa này.

6. Sự học tập: Có ba sự học tập: Sự học tập về tăng thượng giới, sự học tập về tăng thượng tâm, sự học tập về tăng thượng tuệ.[1] Ở đây, “sự học tập” được đề cập trong ý nghĩa này là sự học tập về tăng thượng giới.

7. Lối sống nghĩa là điều học nào đã được đức Thế Tôn quy định, điều học ấy gọi là lối sống. Vì thế, vị học tập theo lối sống ấy được gọi là “thọ trì lối sống.”

8. Khi chưa lìa bỏ sự học tập và chưa bày tỏ lòng yếu nhược: Này các Tỳ-khưu, có sự bày tỏ lòng yếu nhược mà sự học tập chưa được lìa bỏ. Này các Tỳ-khưu, có sự bày tỏ lòng yếu nhược và sự học tập được lìa bỏ.

9. Này các Tỳ-khưu, thế nào là có sự bày tỏ lòng yếu nhược mà sự học tập chưa được lìa bỏ? Này các Tỳ-khưu, trường hợp vị Tỳ-khưu bị bực bội, không thỏa thích, có ý định giã từ hạnh Sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận Tỳ-khưu, mong mỏi thân phận gia chủ, mong mỏi thân phận cư sĩ, mong mỏi thân phận người phụ việc chùa, mong mỏi thân phận Sa-di, mong mỏi thân phận ngoại đạo, mong mỏi thân phận đệ tử ngoại đạo, mong mỏi thân phận không phải là Sa-môn, mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên lìa bỏ đức Phật?” Này các Tỳ-khưu, như thế là có sự bày tỏ lòng yếu nhược mà sự học tập chưa được lìa bỏ.

10. Hoặc là [vị Tỳ-khưu] bị bực bội, không thỏa thích, có ý định giã từ hạnh Sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận Tỳ-khưu, mong mỏi thân phận gia chủ, ...(nt)... mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên lìa bỏ giáo pháp?” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên lìa bỏ hội chúng?” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên lìa bỏ sự học tập?” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên lìa bỏ Luật?” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên lìa bỏ Giới bổn (Pātimokkha)?” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên lìa bỏ việc đọc tụng?” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên lìa bỏ thầy tế độ?” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên lìa bỏ thầy dạy học?” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên lìa bỏ đệ tử?” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên lìa bỏ học trò?” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên lìa bỏ vị có chung thầy tế độ?” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên lìa bỏ vị có chung thầy dạy học?” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên lìa bỏ vị đồng Phạm hạnh?” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên trở thành gia chủ?” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên trở thành nam cư sĩ?” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên trở thành người phụ việc chùa?” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên trở thành Sa-di?” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên trở thành ngoại đạo?” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên trở thành đệ tử ngoại đạo?” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên trở thành không phải là Sa-môn?” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Hay là tôi nên trở thành không phải là Thích tử?” Này các Tỳ-khưu, như thế là có sự bày tỏ lòng yếu nhược mà sự học tập chưa được lìa bỏ.

11. Hoặc là [vị Tỳ-khưu] bị bực bội, không thỏa thích, có ý định giã từ hạnh Sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận Tỳ-khưu, mong mỏi thân phận gia chủ, ...(nt)... mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: “Nếu như tôi có thể lìa bỏ đức Phật?” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Nếu như tôi có thể không phải là Thích tử?” Này các Tỳ-khưu, như thế là có sự bày tỏ lòng yếu nhược mà sự học tập chưa được lìa bỏ.

12. Hoặc là ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Giờ tôi nên lìa bỏ đức Phật.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Giờ tôi nên không phải là Thích tử.” Này các Tỳ-khưu, như thế là có sự bày tỏ lòng yếu nhược mà sự học tập chưa được lìa bỏ.

13. Hoặc là ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Vậy tôi hãy nên lìa bỏ đức Phật.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Vậy tôi hãy nên không phải là Thích tử.” Này các Tỳ-khưu, như thế là có sự bày tỏ lòng yếu nhược mà sự học tập chưa được lìa bỏ.

14. Hoặc là ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Ước gì tôi có thể lìa bỏ đức Phật.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Ước gì tôi có thể không phải là Thích tử.” Này các Tỳ-khưu, như thế là có sự bày tỏ lòng yếu nhược mà sự học tập chưa được lìa bỏ.

15. Hoặc là [vị Tỳ-khưu] bị bực bội, không thỏa thích, có ý định giã từ hạnh Sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận Tỳ-khưu, mong mỏi thân phận gia chủ, ...(nt)... mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ mẹ.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ cha.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ anh [em] trai.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ chị [em] gái.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ con trai.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ con gái.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ vợ.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ quyến thuộc.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ bạn bè.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ làng quê.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ phố phường.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ ruộng.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ vườn.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ tiền vàng.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ vàng khối.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi nhớ nghề nghiệp.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi hồi tưởng lại sự cười, nói, đùa giỡn trước đây.” Này các Tỳ-khưu, như thế là có sự bày tỏ lòng yếu nhược mà sự học tập chưa được lìa bỏ.

16. Hoặc là [vị Tỳ-khưu] bị bực bội, không thỏa thích, có ý định giã từ hạnh Sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận Tỳ-khưu, mong mỏi thân phận gia chủ, ...(nt)... mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có mẹ. Người ấy có thể nuôi tôi.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có cha. Người ấy có thể nuôi tôi.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có anh [em] trai. Người ấy có thể nuôi tôi.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có chị [em] gái. Người ấy có thể nuôi tôi.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có con trai. Nó có thể nuôi tôi.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có con gái. Nó có thể nuôi tôi.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có vợ. Cô ấy có thể nuôi tôi.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có quyến thuộc. Họ có thể nuôi tôi.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có bạn bè. Họ có thể nuôi tôi.” Này các Tỳ-khưu, như thế là có sự bày tỏ lòng yếu nhược mà sự học tập chưa được lìa bỏ.

17. Hoặc là [vị Tỳ-khưu] bị bực bội, không thỏa thích, có ý định giã từ hạnh Sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận Tỳ-khưu, mong mỏi thân phận gia chủ, ...(nt)... mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có mẹ. Người ấy sẽ nuôi tôi.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có cha. Người ấy sẽ nuôi tôi.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có anh [em] trai. Người ấy sẽ nuôi tôi.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có chị [em] gái. Người ấy sẽ nuôi tôi.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có con trai. Người ấy sẽ nuôi tôi.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có con gái. Người ấy sẽ nuôi tôi.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có vợ. Người ấy sẽ nuôi tôi.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có quyến thuộc. Các người ấy sẽ nuôi tôi.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có bạn bè. Các người ấy sẽ nuôi tôi.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có làng quê. Tôi sẽ sống nhờ nó.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có phố phường. Tôi sẽ sống nhờ nó.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có ruộng. Tôi sẽ sống nhờ nó.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có vườn. Tôi sẽ sống nhờ nó.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có tiền vàng. Tôi sẽ sống nhờ nó.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có vàng khối. Tôi sẽ sống nhờ nó.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi có nghề nghiệp. Tôi sẽ sống nhờ nó.” Này các Tỳ-khưu, như thế là có sự bày tỏ lòng yếu nhược mà sự học tập chưa được lìa bỏ.

18. Hoặc là [vị Tỳ-khưu] bị bực bội, không thỏa thích, có ý định giã từ hạnh Sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận Tỳ-khưu, mong mỏi thân phận gia chủ, ...(nt)... mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: “Việc khó làm!” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Không phải việc dễ làm!” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Việc khó thực hành!” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Không phải việc dễ thực hành!” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi không nỗ lực!” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi không chịu đựng nổi!” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi không sung sướng!” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi không thỏa thích!” Này các Tỳ-khưu, như thế là có sự bày tỏ lòng yếu nhược mà sự học tập chưa được lìa bỏ.

*****

19. Này các Tỳ-khưu, thế nào là có sự bày tỏ lòng yếu nhược và sự học tập được lìa bỏ? Này các Tỳ-khưu, trường hợp vị Tỳ-khưu bị bực bội, không thỏa thích, có ý định giã từ hạnh Sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận Tỳ-khưu, mong mỏi thân phận gia chủ, ...(nt)... mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi lìa bỏ đức Phật.” Này các Tỳ-khưu, như thế là có sự bày tỏ lòng yếu nhược và sự học tập được lìa bỏ.

20. Hoặc là [vị Tỳ-khưu] bị bực bội, không thỏa thích, có ý định giã từ hạnh Sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận Tỳ-khưu, mong mỏi thân phận gia chủ, ...(nt)... mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi lìa bỏ giáo pháp.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi lìa bỏ hội chúng.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi lìa bỏ sự học tập.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi lìa bỏ Luật.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi lìa bỏ Giới bổn (Pātimokkha).” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi lìa bỏ việc đọc tụng.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi lìa bỏ thầy tế độ.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi lìa bỏ thầy dạy học.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi lìa bỏ đệ tử.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi lìa bỏ học trò.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi lìa bỏ vị có chung thầy tế độ.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi lìa bỏ vị có chung thầy dạy học.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi lìa bỏ vị đồng Phạm hạnh.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Hãy ghi nhận tôi là gia chủ.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Hãy ghi nhận tôi là cư sĩ.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Hãy ghi nhận tôi là người phụ việc chùa.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Hãy ghi nhận tôi là Sa-di.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Hãy ghi nhận tôi là ngoại đạo.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Hãy ghi nhận tôi là đệ tử ngoại đạo.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Hãy ghi nhận tôi không phải là Sa-môn.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Hãy ghi nhận tôi không phải là Thích tử.” Này các Tỳ-khưu, như thế là có sự bày tỏ lòng yếu nhược và sự học tập được lìa bỏ.

21. Hoặc là [vị Tỳ-khưu] bị bực bội, không thỏa thích, có ý định giã từ hạnh Sa-môn, trong khi bị bồn chồn, bị hổ thẹn, chán ghét thân phận Tỳ-khưu, mong mỏi thân phận gia chủ, ...(nt)... mong mỏi thân phận không phải là Thích tử rồi nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi đã chán đức Phật.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi đã chán vị đồng Phạm hạnh.” Này các Tỳ-khưu, như thế là ...(nt)... và sự học tập được lìa bỏ.

22. Hoặc là ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi còn liên quan gì với đức Phật?” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi còn liên quan gì với vị đồng Phạm hạnh?” Này các Tỳ-khưu, như thế là ...(nt)... và sự học tập được lìa bỏ.

23. Hoặc là ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi không cần đến đức Phật.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi không cần đến vị đồng Phạm hạnh.” Này các Tỳ-khưu, như thế là ...(nt)... và sự học tập được lìa bỏ.

24. Hoặc là ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi đã hoàn toàn lìa khỏi đức Phật.” ...(nt)... nói ra, tuyên bố rằng: “Tôi đã hoàn toàn lìa khỏi vị đồng Phạm hạnh.” Này các Tỳ-khưu, như thế là có sự bày tỏ lòng yếu nhược và sự học tập được lìa bỏ.

25. Hoặc là, còn có những điều khác ám chỉ đức Phật, hoặc ám chỉ giáo pháp, hoặc ám chỉ hội chúng, hoặc ám chỉ sự học tập, hoặc ám chỉ Luật, hoặc ám chỉ Giới bổn (Pātimokkha), hoặc ám chỉ việc đọc tụng, hoặc ám chỉ thầy tế độ, hoặc ám chỉ thầy dạy học, hoặc ám chỉ người đệ tử, hoặc ám chỉ người học trò, hoặc ám chỉ vị có chung thầy tế độ, hoặc ám chỉ vị có chung thầy dạy học, hoặc ám chỉ vị đồng Phạm hạnh, hoặc ám chỉ gia chủ, hoặc ám chỉ nam cư sĩ, hoặc ám chỉ người phụ việc chùa, hoặc ám chỉ Sa-di, hoặc ám chỉ ngoại đạo, hoặc ám chỉ đệ tử ngoại đạo, hoặc ám chỉ việc không phải là Sa-môn, hoặc ám chỉ việc không phải là Thích tử, và vị nói ra, tuyên bố với những hình thức ấy, với những biểu hiện ấy, với những dấu hiệu ấy. Này các Tỳ-khưu, như thế là có sự bày tỏ lòng yếu nhược và sự học tập được lìa bỏ.

26. Này các Tỳ-khưu, thế nào là sự học tập chưa được lìa bỏ? Này các Tỳ-khưu, ở đây, sự học tập được lìa bỏ với những hình thức, với những biểu hiện, với những dấu hiệu mà vị bị điên lìa bỏ sự học tập với những hình thức ấy, với những biểu hiện ấy, với những dấu hiệu ấy thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị lìa bỏ điều học trong sự chứng minh của vị bị điên thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị có tâm bị rối loạn lìa bỏ sự học tập thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị lìa bỏ điều học trong sự chứng minh của vị có tâm bị rối loạn thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị bị thọ khổ hành hạ lìa bỏ sự học tập thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị lìa bỏ điều học trong sự chứng minh của vị bị thọ khổ hành hạ thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị lìa bỏ điều học trong sự chứng minh của thiên nhân thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị lìa bỏ điều học trong sự chứng minh của loài thú thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị lìa bỏ điều học theo ngôn ngữ quý phái trong sự chứng minh của người bình dân, và nếu người ấy không hiểu thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị lìa bỏ điều học theo ngôn ngữ bình dân trong sự chứng minh của người quý phái, và nếu người ấy không hiểu thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị lìa bỏ điều học theo ngôn ngữ quý phái trong sự chứng minh của người quý phái nhưng nếu người ấy không hiểu thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị lìa bỏ điều học theo ngôn ngữ bình dân trong sự chứng minh của người bình dân nhưng nếu người ấy không hiểu thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị lìa bỏ điều học theo lối đùa cợt thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị lìa bỏ điều học do bị lỡ lời thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị ấy nói ra nhưng có ý định không cho nghe thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị ấy có định cho nghe nhưng nói ra không nghe được thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị ấy nói với kẻ không hiểu biết thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Vị ấy không nói ra cho nghe đến người hiểu biết thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Hoặc vị ấy không nói ra đầy đủ thì sự học tập vẫn chưa được lìa bỏ. Này các Tỳ-khưu, như thế là sự học tập chưa được lìa bỏ.

27. Việc đôi lứa nghĩa là việc nào là việc kết hợp của hai người, theo từng cặp, ở nơi kín đáo, là việc làm không tốt đẹp, là việc làm của các dân làng, là việc làm của những người thấp kém, là xấu xa, kết cuộc phải dùng nước tẩy rửa; việc ấy gọi là việc đôi lứa.

28. Thực hiện nghĩa là vị nào đưa vật biểu tượng vào vật biểu tượng, đưa dương vật vào âm vật, cho dầu chỉ [đưa vào] khoảng cách bằng hạt mè, vị ấy được gọi là thực hiện.

29. Ngay cả với loài thú cái: Sau khi thực hiện việc đôi lứa với giống cái của loài thú thì không còn là Sa-môn, không còn là Thích tử nữa, chứ không phải chỉ với người nữ; vì thế được gọi là “ngay cả với loài thú cái.”

30. Là vị phạm tội Pārājika: Cũng giống như người đàn ông bị chặt đứt đầu, không thể sống bám víu vào thân thể ấy. Tương tợ như thế, vị Tỳ-khưu sau khi thực hiện việc đôi lứa thì không còn là Sa-môn, không còn là Thích tử; vì thế được gọi là “vị phạm tội Pārājika.”

31. Không được cộng trú: Cộng trú nghĩa là có chung hành sự, có chung việc đọc tụng [Giới bổn], có sự học tập giống nhau, điều ấy gọi là cộng trú. Vị ấy không có được điều ấy, vì thế được gọi là “không được cộng trú.”

32. Nữ tánh có ba loại: Người nữ, phi nhân nữ, thú cái. Lưỡng căn có ba loại: Người lưỡng căn, phi nhân lưỡng căn, thú lưỡng căn. Vô căn[2] có ba loại: Người vô căn, phi nhân vô căn, thú vô căn. Nam tánh có ba loại: Người nam, phi nhân nam, thú đực.

33. Vị thực hiện việc đôi lứa với người nữ theo ba đường: Ở đường đại tiện, ở đường tiểu tiện, ở miệng thì phạm tội Pārājika. Vị thực hiện việc đôi lứa với phi nhân nữ ...(nt)... với thú cái theo ba đường: Ở đường đại tiện, ở đường tiểu tiện, ở miệng thì phạm tội Pārājika. Vị thực hiện việc đôi lứa với người lưỡng căn ...(nt)... với phi nhân lưỡng căn ...(nt)... với thú lưỡng căn theo ba đường: Ở đường đại tiện, ở đường tiểu tiện, ở miệng thì phạm tội Pārājika.

34. Vị thực hiện việc đôi lứa với người vô căn theo hai đường: Ở đường đại tiện, ở miệng thì phạm tội Pārājika. Vị thực hiện việc đôi lứa với phi nhân vô căn ...(nt)... với thú vô căn ...(nt)... với người nam ...(nt)... với phi nhân nam ...(nt)... với thú đực theo hai đường: Ở đường đại tiện, ở miệng thì phạm tội Pārājika.

35. Vị Tỳ-khưu nghĩ đến việc giao hợp rồi đưa dương vật vào đường đại tiện của người nữ thì phạm tội Pārājika. Vị Tỳ-khưu nghĩ đến việc giao hợp rồi đưa dương vật vào đường tiểu tiện ...(nt)... vào miệng của người nữ thì phạm tội Pārājika. Vị Tỳ-khưu nghĩ đến việc giao hợp rồi đưa dương vật vào đường đại tiện ...(nt)... vào đường tiểu tiện ...(nt)... vào miệng của phi nhân nữ ...(nt)... của thú cái ...(nt)... của người lưỡng căn ...(nt)... của phi nhân lưỡng căn ...(nt)... của thú lưỡng căn thì phạm tội Pārājika.

36. Vị Tỳ-khưu nghĩ đến việc giao hợp rồi đưa dương vật vào đường đại tiện ...(nt)... vào miệng của người vô căn thì phạm tội Pārājika. Vị Tỳ-khưu nghĩ đến việc giao hợp rồi đưa dương vật vào đường đại tiện ...(nt)... vào miệng của phi nhân vô căn ...(nt)... của thú vô căn ...(nt)... của người nam ...(nt)... của phi nhân nam ...(nt)... của thú đực ...(nt)... thì phạm tội Pārājika.

37. Các Tỳ-khưu đối nghịch[3] đem người nữ lại gần vị Tỳ-khưu rồi kết hợp dương vật [vị ấy] với đường đại tiện [của cô ấy]. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội Pārājika. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem người nữ lại gần vị Tỳ-khưu rồi kết hợp dương vật [vị ấy] với đường đại tiện [của cô ấy]. Nếu vị ấy không ưng thuận việc đưa vào, [nhưng] ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội Pārājika.

Các Tỳ-khưu đối nghịch đem người nữ lại gần vị Tỳ-khưu rồi kết hợp dương vật [vị ấy] với đường đại tiện [của cô ấy]. Nếu vị ấy không ưng thuận việc đưa vào, không ưng thuận khi được đẩy vào, [nhưng] ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội Pārājika. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem người nữ lại gần vị Tỳ-khưu rồi kết hợp dương vật [vị ấy] với đường đại tiện [của cô ấy]. Nếu vị ấy không ưng thuận việc đưa vào, không ưng thuận khi được đẩy vào, không ưng thuận khi dừng lại, [nhưng] ưng thuận việc rút ra thì phạm tội Pārājika.

Các Tỳ-khưu đối nghịch đem người nữ lại gần vị Tỳ-khưu rồi kết hợp dương vật [vị ấy] với đường đại tiện [của cô ấy]. Nếu vị ấy không ưng thuận việc đưa vào, không ưng thuận khi được đẩy vào, không ưng thuận khi dừng lại, không ưng thuận việc rút ra thì vô tội.

38. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem người nữ lại gần vị Tỳ-khưu rồi kết hợp dương vật [vị ấy] với đường tiểu tiện ...(nt)... với miệng [của cô ấy]. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội Pārājika. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

39. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem người nữ đang tỉnh táo ...(nt)... đang ngủ ...(nt)... đang say sưa ...(nt)... bị điên ...(nt)... đang đờ đẫn ...(nt)... đã chết chưa bị [thú] ăn ...(nt)... đã chết chưa bị [thú] ăn nhiều phần ...(nt)... Nếu vị ấy ưng thuận ...(nt)... thì phạm tội Pārājika.

40. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem người nữ đã chết, đã bị [thú] ăn nhiều phần lại gần vị Tỳ-khưu rồi kết hợp dương vật [vị ấy] với đường đại tiện ...(nt).. với đường tiểu tiện ...(nt)... với miệng [của cô ấy]. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội Thullaccaya. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

41. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem phi nhân nữ ...(nt)... thú cái ...(nt)... người lưỡng căn ...(nt)... phi nhân lưỡng căn ...(nt)... thú lưỡng căn lại gần vị Tỳ-khưu rồi kết hợp dương vật [vị ấy] với đường đại tiện ...(nt)... với đường tiểu tiện ...(nt)... với miệng [của đối tượng]. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội Pārājika. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

42. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem thú lưỡng căn đang tỉnh táo ...(nt)... đang ngủ ...(nt)... đang say sưa ...(nt)... bị điên ...(nt)... đang đờ đẫn ...(nt)... đã chết chưa bị [thú] ăn ...(nt)... đã chết chưa bị [thú] ăn nhiều phần ...(nt)... Nếu vị ấy ưng thuận ...(nt)... thì phạm tội Pārājika. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

43. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem thú lưỡng căn đã chết, đã bị [thú] ăn nhiều phần lại gần vị Tỳ-khưu rồi kết hợp dương vật [vị ấy] với đường đại tiện ...(nt)... với đường tiểu tiện ...(nt).. với miệng [của đối tượng]. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội Thullaccaya. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

44. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem người vô căn ...(nt)... phi nhân vô căn ...(nt)... thú vô căn lại gần vị Tỳ-khưu rồi kết hợp dương vật [vị ấy] với đường đại tiện ...(nt)... với miệng [của đối tượng]. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm Pārājika. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

45. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem thú vô căn đang tỉnh táo ...(nt)... đang ngủ ...(nt)... đang say sưa ...(nt)... bị điên ...(nt)... đang đờ đẫn ...(nt)... đã chết chưa bị [thú] ăn ...(nt)... đã chết chưa bị [thú] ăn nhiều phần. Nếu vị ấy ưng thuận ...(nt)... thì phạm tội Pārājika. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

46. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem thú vô căn đã chết, đã bị [thú] ăn nhiều phần lại gần vị Tỳ-khưu rồi kết hợp dương vật [vị ấy] với đường đại tiện ...(nt)... với miệng [của đối tượng]. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội Thullaccaya. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

47. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem người nam ...(nt)... phi nhân nam ...(nt)... thú đực lại gần vị Tỳ-khưu rồi kết hợp dương vật [vị ấy] với đường đại tiện ...(nt)... với miệng [của đối tượng]. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm Pārājika. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

48. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem thú đực đang tỉnh táo ...(nt)... đang ngủ ...(nt)... đang say sưa ...(nt)... bị điên ...(nt)... đang đờ đẫn ...(nt)... đã chết chưa bị [thú] ăn ...(nt)... đã chết chưa bị [thú] ăn nhiều phần ...(nt)... Nếu vị ấy ưng thuận ...(nt)... thì phạm tội Pārājika. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

49. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem thú đực đã chết, đã bị [thú] ăn nhiều phần lại gần vị Tỳ-khưu rồi kết hợp dương vật [vị ấy] với đường đại tiện ...(nt)... với miệng [của đối tượng]. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội Thullaccaya. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

50. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem người nữ lại gần vị Tỳ-khưu rồi kết hợp dương vật [vị ấy] với đường đại tiện ...(nt)... với đường tiểu tiện ...(nt)... với miệng [của cô ấy], của cô ấy được che phủ và của vị ấy không được che phủ ...(nt)... của cô ấy không được che phủ và của vị ấy được che phủ ...(nt)... của cô ấy được che phủ và của vị ấy được che phủ ...(nt)... của cô ấy không được che phủ và của vị ấy không được che phủ. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội Pārājika. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

51. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem người nữ đang tỉnh táo ... đang ngủ ... đang say sưa ... bị điên ... đang đờ đẫn ... đã chết chưa bị [thú] ăn ... đã chết chưa bị [thú] ăn nhiều phần ... Nếu vị ấy ưng thuận ...(nt)... thì phạm tội Pārājika. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

52. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem người nữ ...(nt)... phi nhân nữ ...(nt)... thú cái đã chết, đã bị [thú] ăn nhiều phần lại gần vị Tỳ-khưu rồi kết hợp dương vật [vị ấy] với đường đại tiện ...(nt)... với đường tiểu tiện ...(nt)... với miệng [của đối tượng], của đối tượng được che phủ và của vị ấy không được che phủ ...(nt)... của đối tượng không được che phủ và của vị ấy được che phủ ...(nt)... của đối tượng được che phủ và của vị ấy được che phủ ...(nt)... của đối tượng không được che phủ và của vị ấy không được che phủ. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội Thullaccaya. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

53. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem người lưỡng căn ...(nt)... phi nhân lưỡng căn ...(nt)... thú lưỡng căn lại gần vị Tỳ-khưu rồi kết hợp dương vật [vị ấy] với đường đại tiện ...(nt)... với đường tiểu tiện ...(nt)... với miệng [của đối tượng], của đối tượng được che phủ và của vị ấy không được che phủ ... của đối tượng không được che phủ và của vị ấy được che phủ ... của đối tượng được che phủ và của vị ấy được che phủ ... của đối tượng không được che phủ và của vị ấy không được che phủ. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội Pārājika. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

54. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem thú lưỡng căn đang tỉnh táo ...(nt)... đang ngủ ...(nt)... đang say sưa ...(nt)... bị điên ...(nt)... đang đờ đẫn ...(nt)... đã chết chưa bị [thú] ăn ...(nt)... đã chết chưa bị [thú] ăn nhiều phần ...(nt)... thì phạm tội Pārājika.

55. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem thú lưỡng căn đã chết, đã bị [thú] ăn nhiều phần lại gần vị Tỳ-khưu rồi kết hợp dương vật [vị ấy] với đường đại tiện ...(nt)... với đường tiểu tiện ...(nt)... với miệng [của đối tượng], của đối tượng được che phủ và của vị ấy không được che phủ ...(nt)... của đối tượng không được che phủ và của vị ấy được che phủ ...(nt)... của đối tượng được che phủ và của vị ấy được che phủ ...(nt)... của đối tượng không được che phủ và của vị ấy không được che phủ. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội Thullaccaya. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

56. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem người vô căn ...(nt)... phi nhân vô căn ...(nt)... thú vô căn ...(nt)... người nam ...(nt)... phi nhân nam ...(nt)... thú đực lại gần vị Tỳ-khưu rồi kết hợp dương vật [vị ấy] với đường đại tiện ...(nt)... với miệng [của đối tượng], của đối tượng được che phủ và của vị ấy không được che phủ ...(nt)... của đối tượng không được che phủ và của vị ấy được che phủ ...(nt)... của đối tượng được che phủ và của vị ấy được che phủ ...(nt)... của đối tượng không được che phủ và của vị ấy không được che phủ. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm Pārājika. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

57. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem người vô căn ...(nt)... thú đực đang tỉnh táo ...(nt)... đang ngủ ...(nt)... đang say sưa ...(nt)... bị điên ...(nt)... đang đờ đẫn ...(nt)... đã chết chưa bị [thú] ăn ...(nt)... đã chết chưa bị [thú] ăn nhiều phần ...(nt)... Nếu vị ấy ưng thuận ...(nt)... thì phạm tội Pārājika. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

58. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem thú đực đã chết, đã bị [thú] ăn nhiều phần lại gần vị Tỳ-khưu rồi kết hợp dương vật [vị ấy] với đường đại tiện ...(nt)... với miệng [của đối tượng], của đối tượng được che phủ và của vị ấy không được che phủ ...(nt)... của đối tượng không được che phủ và của vị ấy được che phủ ...(nt)... của đối tượng được che phủ và của vị ấy được che phủ ...(nt)... của đối tượng không được che phủ và của vị ấy không được che phủ. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội Thullaccaya. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

59. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem vị Tỳ-khưu lại gần người nữ rồi kết hợp đường đại tiện ...(nt)... đường tiểu tiện ...(nt)... miệng [của cô ấy] với dương vật [vị ấy]. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội Pārājika. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

60. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem vị Tỳ-khưu lại gần người nữ đang tỉnh táo ...(nt)... đang ngủ ...(nt)... đang say sưa ...(nt)... bị điên ...(nt)... đang đờ đẫn ...(nt)... đã chết chưa bị [thú] ăn ...(nt)... đã chết chưa bị [thú] ăn nhiều phần ... Nếu vị ấy ưng thuận ...(nt)... thì phạm tội Pārājika ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

61. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem vị Tỳ-khưu lại gần người nữ đã chết, đã bị [thú] ăn nhiều phần rồi kết hợp đường đại tiện ...(nt)... đường tiểu tiện ...(nt)... miệng [của cô ấy] với dương vật [vị ấy]. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội Thullaccaya. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

62. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem vị Tỳ-khưu lại gần phi nhân nữ ...(nt)... thú cái ...(nt)... người lưỡng căn ...(nt)... phi nhân lưỡng căn ...(nt)... thú lưỡng căn ...(nt)... người vô căn ...(nt)... phi nhân vô căn ...(nt)... thú vô căn ...(nt)... người nam ...(nt)... phi nhân nam ...(nt)... thú đực rồi kết hợp đường đại tiện ...(nt)... miệng [của đối tượng] với dương vật [vị ấy]. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội Pārājika. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

63. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem vị Tỳ-khưu lại gần thú đực đang tỉnh táo ...(nt)... đang ngủ ...(nt)... đang say sưa ...(nt)... bị điên ...(nt)... đang đờ đẫn ...(nt)... đã chết chưa bị [thú] ăn ...(nt)... đã chết chưa bị [thú] ăn nhiều phần ...(nt)... Nếu vị ấy ưng thuận ...(nt)... thì phạm tội Pārājika. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

64. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem vị Tỳ-khưu lại gần thú đực đã chết, đã bị [thú] ăn nhiều phần rồi kết hợp đường đại tiện ...(nt)... miệng [của đối tượng] với dương vật [vị ấy]. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội Thullaccaya. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

65. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem vị Tỳ-khưu lại gần người nữ rồi kết hợp đường đại tiện ...(nt)... đường tiểu tiện ...(nt)... miệng [của cô ấy] với dương vật [vị ấy], của vị ấy được che phủ và của cô ấy không được che phủ ...(nt)... của vị ấy không được che phủ và của cô ấy được che phủ ...(nt)... của vị ấy được che phủ và của cô ấy được che phủ ...(nt)... của vị ấy không được che phủ và của cô ấy không được che phủ. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội Pārājika. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

66. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem vị Tỳ-khưu lại gần người nữ đang tỉnh táo...(nt)... đang ngủ ...(nt)... đang say sưa ...(nt)... bị điên ...(nt)... đang đờ đẫn ...(nt)...  đã chết chưa bị [thú] ăn ...(nt)... đã chết chưa bị [thú] ăn nhiều phần ... Nếu vị ấy ưng thuận ...(nt)... thì phạm tội Pārājika. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

67. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem vị Tỳ-khưu lại gần người nữ đã chết, đã bị [thú] ăn nhiều phần rồi kết hợp đường đại tiện ...(nt)... đường tiểu tiện...(nt)... miệng [của cô ấy] với dương vật [vị ấy]. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội Thullaccaya. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

68. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem vị Tỳ-khưu lại gần phi nhân nữ ...(nt)... thú cái ...(nt)... người lưỡng căn ...(nt)... phi nhân lưỡng căn...(nt)... thú lưỡng căn rồi kết hợp đường đại tiện ...(nt)... đường tiểu tiện ...(nt)... miệng [của đối tượng] ...(nt)... lại gần người vô căn ...(nt)... phi nhân vô căn ...(nt)... thú vô căn...(nt)... người nam ...(nt)... phi nhân nam ...(nt)... thú đực rồi kết hợp đường đại tiện ...(nt)... miệng [của đối tượng] với dương vật [vị ấy] ...(nt)... của vị ấy được che phủ và của đối tượng không được che phủ ...(nt)... của vị ấy không được che phủ và của đối tượng được che phủ ...(nt)... của vị ấy được che phủ và của đối tượng được che phủ ...(nt)... của vị ấy không được che phủ và của đối tượng không được che phủ. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội Pārājika. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

69. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem vị Tỳ-khưu lại gần thú đực đang tỉnh táo ...(nt)... đang ngủ ...(nt)... đang say sưa ...(nt)... bị điên ...(nt)... đang đờ đẫn ...(nt)... đã chết chưa bị [thú] ăn ...(nt)... đã chết chưa bị [thú] ăn nhiều phần ...(nt)... Nếu vị ấy ưng thuận thì phạm tội Pārājika. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

70. Các Tỳ-khưu đối nghịch đem vị Tỳ-khưu lại gần thú đực đã chết, đã bị [thú] ăn nhiều phần rồi kết hợp đường đại tiện ...(nt)... miệng [của đối tượng] với dương vật [vị ấy], của vị ấy được che phủ và của đối tượng không được che phủ ...(nt)... của vị ấy không được che phủ và của đối tượng được che phủ ...(nt)... của vị ấy được che phủ và của đối tượng được che phủ ...(nt)... của vị ấy không được che phủ và của đối tượng không được che phủ. Nếu vị ấy ưng thuận việc đưa vào, ưng thuận khi được đẩy vào, ưng thuận khi dừng lại, ưng thuận việc rút ra thì phạm tội Thullaccaya. ...(nt)... không ưng thuận thì vô tội.

71. Các vị vua đối nghịch[4] ...(nt)...Các kẻ trộm cướp đối nghịch ...(nt)... Các kẻ vô lại đối nghịch ...(nt)... Các kẻ thảo khấu đối nghịch ...(nt)... thì phạm tội ...(nt)... thì vô tội [nên phân tích tương tợ như ở các phần liên quan đến “các Tỳ-khưu đối nghịch”].

[Phần “Được che phủ” đã được giảng xong].

72. Đưa vào đường khiếu theo đường khiếu thì phạm tội Pārājika. Đưa vào nơi không phải là đường khiếu theo đường khiếu thì phạm tội Pārājika. Đưa vào đường khiếu không theo đường khiếu thì phạm tội Pārājika. Đưa vào nơi không phải là đường khiếu không theo đường khiếu thì phạm tội Thullaccaya.

73. Vị Tỳ-khưu vi phạm giới với vị Tỳ-khưu đang ngủ. Vị kia thức giấc lại ưng thuận; cả hai nên bị trục xuất. Vị kia thức giấc không ưng thuận, kẻ làm bậy nên bị trục xuất.

74. Vị Tỳ-khưu vi phạm giới với vị Sa-di đang ngủ. Vị Sa-di thức giấc lại ưng thuận; cả hai nên bị trục xuất. Vị Sa-di thức giấc không ưng thuận, kẻ làm bậy nên bị trục xuất.

75. Vị Sa-di vi phạm giới với vị Tỳ-khưu đang ngủ. Vị Tỳ-khưu thức giấc lại ưng thuận; cả hai nên bị trục xuất. Vị Tỳ-khưu thức giấc không ưng thuận, kẻ làm bậy nên bị trục xuất.

76. Vị Sa-di vi phạm giới với vị Sa-di đang ngủ. Vị kia thức giấc lại ưng thuận; cả hai nên bị trục xuất. Vị kia thức giấc không ưng thuận, kẻ làm bậy nên bị trục xuất.

77. Vị không biết, vị không ưng thuận, vị bị điên, vị có tâm bị rối loạn, vị bị thọ khổ hành hạ, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.

Dứt tụng phẩm “Được che phủ.”

--oo0oo--

 

Chú thích

[1] Adhisīla: Tăng thượng giới là Giới bổn (Pātimokkha). Adhicitta: Tăng thượng tâm là sự tu tập các loại định hợp thế. Adhipaññā: Tăng thượng tuệ là sự tu tập [các tâm] đạo siêu thế (VinA. I. 244-45).

[2]  Từ Pāli, paṇḍaka là đề cập đến phái nam. Về phái nữ, các từ được tìm thấy là paṇḍikā, itthipaṇḍikā, itthipaṇḍaka. Từ tiếng Anh tương đương là eunuch, được dịch sang tiếng Việt là “hoạn quan, thái giám.” Từ “bị thiến” đã được dùng đến trong một số bản dịch trước đây. Lâu nay, chúng tôi hiểu theo ý nghĩa thông thường đó. Gần đây, chúng tôi tìm thấy từ jātipaṇḍaka, mới biết thêm được là có hạng người paṇḍaka bẩm sanh. Dựa theo phần giảng giải của giới Pārājika thứ nhất này, chúng tôi có được khái niệm là hạng này không có bộ phận sinh dục, còn việc xác định nam hay nữ là do các đặc tính khác như vóc dáng, bộ ngực, giọng nói, v.v... Về tâm sinh lý, trong Mahāvagga (Đại phẩm), thuộc Luật tạng có câu chuyện đề cập đến bản chất ham muốn về nhục dục của hạng người này. Chúng tôi tạm dịch là “vô căn” cho hạng người không có bộ phận sinh dục này, cho dù là bẩm sinh hay bị thiến.

[3]  Bhikkhupaccatthikā được Ṭīkā (Sớ giải) giải thích là: “Các kẻ đối nghịch của Tỳ-khưu”, còn ngài Buddhaghosa thiên về ý “các Tỳ-khưu đối nghịch.” Theo văn phạm, hai cách dịch trên đều có khả năng tùy theo cách phân tích hợp từ bhikkhupaccatthikātappurisa hay kammadhāraya. Sự chọn lựa của ngài Buddhaghosa có phần hợp lý hơn, xin xem giải thích ở phần kế.

[4] Nếu ở trên dịch hợp từ bhikkhupaccatthikā là “các kẻ đối nghịch của Tỳ-khưu” thì ở đây phải dịch rājapaccatthikā là “các kẻ đối nghịch của vị vua”, xét ra không hợp lý. Chính vì ở đây phải dịch là “các vị vua đối nghịch” nên có thể xác định ý nghĩa cho từ bhikkhupaccatthikā ở trên là “các Tỳ-khưu đối nghịch.”

--oo0oo--