Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng thánh điển PGVN 10 » Tạng Tam Tạng Thượng Toạn Bộ 10 »

PHÂN TÍCH GIỚI BỔN 
(Suttavibhaṅga)
Tỳ-Khưu INDACANDA

Mục Lục

1.1. ĐIỀU PĀRĀJIKA THỨ NHẤT

 

1. Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, Sāḷha, cháu trai của Migāra[1] có ý định xây dựng trú xá cho hội chúng Tỳ-khưu-ni. Khi ấy, Sāḷha, cháu trai của Migāra đã đi đến gặp các Tỳ-khưu-ni và nói điều này:

– Thưa các Ni sư, tôi muốn xây dựng trú xá cho hội chúng Tỳ-khưu-ni. Hãy giao cho tôi vị Tỳ-khưu-ni là vị phụ trách công trình mới.

Vào lúc bấy giờ, có bốn chị em đã xuất gia nơi các Tỳ-khưu-ni là: Nandā, Nandavatī, Sundarīnandā, Thullanandā. Trong số các cô ấy, Tỳ-khưu-ni Sundarīnandā đã xuất gia lúc còn trẻ, đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái, trí tuệ, kinh nghiệm, thông minh, sắc sảo, cần cù, biết cách suy xét tính toán, có khả năng để xây dựng, có khả năng để hoàn thành công việc ấy. Khi ấy, hội chúng Tỳ-khưu-ni đã chỉ định Tỳ-khưu-ni Sundarīnandā làm vị phụ trách công trình mới, rồi đã giao cho Sāḷha, cháu trai của Migāra. Vào lúc bấy giờ, Tỳ-khưu-ni Sundarīnandā thường xuyên đi đến nhà của Sāḷha, cháu trai của Migāra [nói rằng]:

– Hãy bố thí rìu, hãy bố thí búa, hãy bố thí cuốc, hãy bố thí xẻng, hãy bố thí lưỡi đục.

Sāḷha, cháu trai của Migāra cũng thường xuyên đi đến chỗ ngụ của các Tỳ-khưu-ni để biết được việc đã làm xong hoặc chưa làm xong. Do sự thường xuyên gặp gỡ, hai người đã sanh tâm quyến luyến. Khi ấy, Sāḷha, cháu trai của Migāra trong khi không có được cơ hội để gần gũi, thân mật với Tỳ-khưu-ni Sundarīnandā nên đã làm bữa trai phạn dâng hội chúng Tỳ-khưu-ni chính vì mục đích ấy. Khi ấy, Sāḷha, cháu trai của Migāra trong khi xếp đặt chỗ ngồi ở nhà ăn [nghĩ rằng]: “Chừng này vị Tỳ-khưu-ni là thâm niên hơn Ni sư Sundarīnandā”, rồi đã sắp xếp chỗ ngồi phía bên này; “Chừng này vị là trẻ hơn”, rồi đã sắp xếp chỗ ngồi ở phía bên kia; và đã sắp xếp chỗ ngồi cho Tỳ-khưu-ni Sundarīnandā ở góc tường, là nơi đã được che khuất. Như thế, các Tỳ-khưu-ni trưởng lão có thể tin rằng: “Cô ta đang ngồi ở chỗ các Tỳ-khưu-ni mới tu”, còn các Tỳ-khưu-ni mới tu có thể tin rằng: “Cô ta đang ngồi ở chỗ các Tỳ-khưu-ni trưởng lão.”

2. Sau đó, Sāḷha, cháu trai của Migāra đã cho người thông báo thời giờ đến hội chúng Tỳ-khưu-ni rằng:

– Thưa các Ni sư, đã đến giờ, bữa ăn đã chuẩn bị xong.

Tỳ-khưu-ni Sundarīnandā đã xét đoán rằng: “Sāḷha, cháu trai của Migāra đã làm bữa trai phạn dâng hội chúng Tỳ-khưu-ni không phải vì phước báu, anh ta có ý muốn gần gũi thân mật với ta; nếu ta đi thì ta sẽ bị mất phẩm giá!” nên đã bảo vị Tỳ-khưu-ni học trò rằng:

– Hãy đi và mang thức ăn về cho ta. Và ai hỏi ta thì cho hay rằng: “Cô bị bệnh.”

– Thưa Ni sư, xin vâng.

Vị Tỳ-khưu-ni ấy đã trả lời Tỳ-khưu-ni Sundarīnandā.

3. Vào lúc bấy giờ, Sāḷha, cháu trai của Migāra đứng ở bên ngoài cánh cổng ra vào, hỏi han về Tỳ-khưu-ni Sundarīnandā rằng:

– Thưa Ni sư, Ni sư Sundarīnandā ở đâu? Thưa Ni sư, Ni sư Sundarīnandā ở đâu?

Khi được nói như thế, vị Tỳ-khưu-ni học trò của Tỳ-khưu-ni Sundarīnandā đã nói với Sāḷha, cháu trai của Migāra điều này:

– Này đạo hữu, [Ni sư] bị bệnh. Tôi sẽ mang thức ăn về.

Khi ấy, Sāḷha, cháu trai của Migāra [nghĩ rằng]: “Sở dĩ ta đã làm bữa trai phạn nhằm lợi ích cho hội chúng Tỳ-khưu-ni có nguyên nhân là Ni sư Sundarīnandā”, nên đã ra lệnh cho mọi người rằng: “Hãy dâng bữa trai phạn đến hội chúng Tỳ-khưu-ni”, nói xong đã đi đến chỗ ngụ của các Tỳ-khưu-ni.

4. Vào lúc bấy giờ, Tỳ-khưu-ni Sundarīnandā đứng ở bên ngoài cổng ra vào tu viện, trông ngóng Sāḷha, cháu trai của Migāra. Rồi Tỳ-khưu-ni Sundarīnandā đã nhìn thấy Sāḷha, cháu trai của Migāra từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy, đã đi vào tu viện, trùm y kín đầu rồi nằm xuống ở chiếc giường. Sau đó, Sāḷha, cháu trai của Migāra đã đi đến gặp Tỳ-khưu-ni Sundarīnandā; sau khi đến đã nói với Tỳ-khưu-ni Sundarīnandā điều này:

– Thưa Ni sư, có phải Ni sư không được khỏe? Sao lại nằm?

– Này đạo hữu, bởi vì điều ấy là như vậy! Là khi nàng thích chàng mà chàng lại không thích!

– Thưa Ni sư, sao tôi lại không thích Ni sư được? Ngặt là tôi không có được cơ hội để gần gũi, thân mật với Ni sư.

Rồi Sāḷha, cháu trai của Migāra nhiễm dục vọng, đã thực hiện việc xúc chạm cơ thể với Tỳ-khưu-ni Sundarīnandā nhiễm dục vọng.

5. Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ-khưu-ni nọ yếu đuối, già cả, bị bệnh ở bàn chân, đang nằm không xa Tỳ-khưu-ni Sundarīnandā. Vị Tỳ-khưu-ni ấy đã nhìn thấy Sāḷha, cháu trai của Migāra nhiễm dục vọng, đang thực hiện việc xúc chạm cơ thể với Tỳ-khưu-ni Sundarīnandā nhiễm dục vọng, sau khi thấy, mới phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: “Vì sao Ni sư Sundarīnandā nhiễm dục vọng, lại ưng thuận việc xúc chạm cơ thể của người nam nhiễm dục vọng?”

6. Sau đó, vị Tỳ-khưu-ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các Tỳ-khưu-ni. Các Tỳ-khưu-ni nào ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, các vị Ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: “Vì sao Ni sư Sundarīnandā nhiễm dục vọng, lại ưng thuận việc xúc chạm cơ thể của người nam nhiễm dục vọng?”

Sau đó, các Tỳ-khưu-ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các Tỳ-khưu. Các vị Tỳ-khưu nào ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: “Vì sao Tỳ-khưu-ni Sundarīnandā nhiễm dục vọng, lại ưng thuận việc xúc chạm cơ thể của người nam nhiễm dục vọng?”

Sau đó, các vị Tỳ-khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

7. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy, đã triệu tập hội chúng Tỳ-khưu lại và đã hỏi các Tỳ-khưu rằng:

– Này các Tỳ-khưu, nghe nói Tỳ-khưu-ni Sundarīnandā nhiễm dục vọng, ưng thuận việc xúc chạm cơ thể của người nam nhiễm dục vọng, có đúng không vậy?

– Bạch Thế Tôn, đúng vậy.

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

– ...(nt)... Này các Tỳ-khưu, thật không đúng đắn đối với Tỳ-khưu-ni Sundarīnandā, thật không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm! Này các Tỳ-khưu, vì sao Tỳ-khưu-ni Sundarīnandā nhiễm dục vọng, lại ưng thuận việc xúc chạm cơ thể của người nam nhiễm dục vọng vậy? Này các Tỳ-khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. Này các Tỳ-khưu, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi [niềm tin] của một số người đã có đức tin.

Sau đó, khi đã khiển trách Tỳ-khưu-ni Sundarīnandā bằng nhiều phương thức, đức Thế Tôn đã chê trách về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, sự khó khăn trong việc ăn uống, sự tầm cầu quá nhiều, sự không biết đủ, sự kết phe nhóm, sự biếng nhác; và bằng nhiều phương thức, Ngài đã ngợi khen về sự dễ dàng trong việc cấp dưỡng, sự dễ dàng trong việc ăn uống, sự ít tầm cầu, sự biết đủ, sự từ khước, sự tiết chế, sự hòa nhã, sự đoạn giảm, sự ra sức nỗ lực. Ngài đã thuyết pháp thích đáng và phù hợp cho các Tỳ-khưu rồi đã bảo các Tỳ-khưu rằng:

8. – Này các Tỳ-khưu, như thế thì Ta sẽ quy định điều học cho các Tỳ-khưu-ni vì mười điều lợi ích: Nhằm đem lại sự tốt đẹp cho hội chúng, nhằm đem lại sự an lạc cho hội chúng, nhằm việc trấn áp những Tỳ-khưu-ni ác xấu, nhằm sự lạc trú của các Tỳ-khưu-ni hiền thiện, nhằm ngăn ngừa các lậu hoặc trong hiện tại, nhằm sự diệt trừ các lậu hoặc trong tương lai, nhằm đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, nhằm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin, nhằm sự tồn tại của Chánh pháp và nhằm sự hỗ trợ của Luật. Và này các Tỳ-khưu, các Tỳ-khưu-ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

Vị Tỳ-khưu-ni nào nhiễm dục vọng, ưng thuận sự sờ vào, hoặc sự vuốt ve, hoặc sự nắm lấy, hoặc sự chạm vào, hoặc sự ôm chặt của người nam nhiễm dục vọng từ xương đòn [ở cổ] trở xuống, từ đầu gối trở lên, vị Ni này cũng là vị phạm tội Pārājika, không được cộng trú, là người nữ có liên quan đến phần trên đầu gối.”

9. Vị Ni nào: Là bất cứ vị Ni nào có mối quan hệ như vầy, có giai cấp như vầy, có tên như vầy, có họ như vầy, có giới hạnh như vầy, có trú xứ như vầy, có hành xứ như vầy, là vị Trưởng lão Ni [trên mười năm] mới tu [dưới năm năm], hoặc trung niên [trên năm năm]; vị Ni ấy được gọi là “vị Ni nào.”

Tỳ-khưu-ni: “Người nữ đi khất thực” là Tỳ-khưu-ni. “Người nữ chấp nhận việc đi khất thực” là Tỳ-khưu-ni. “Người nữ mặc y đã được cắt rời” là Tỳ-khưu-ni. Là Tỳ-khưu-ni do sự thừa nhận. Là Tỳ-khưu-ni do tự mình xác nhận. Là Tỳ-khưu-ni khi được [đức Phật] nói rằng: “Này Tỳ-khưu-ni, hãy đi đến.” “Người nữ đã tu lên bậc trên bằng tam quy” là Tỳ-khưu-ni. “Người nữ hiền thiện” là Tỳ-khưu-ni. “Người nữ có thực chất” là Tỳ-khưu-ni. “Người nữ Thánh Hữu học” là Tỳ-khưu-ni. “Người nữ Thánh Vô học” là Tỳ-khưu-ni. “Người nữ đã được tu lên bậc trên bằng hành sự, có lời thông báo đến lần thứ tư không sai sót, đáng được duy trì với cả hai hội chúng có sự hợp nhất” là Tỳ-khưu-ni. Ở đây, vị Tỳ-khưu-ni đã được tu lên bậc trên bằng hành sự, có lời thông báo đến lần thứ tư không sai sót, đáng được duy trì với cả hai hội chúng có sự hợp nhất, vị Ni này là “vị Tỳ-khưu-ni” được đề cập trong ý nghĩa này.

[Nữ] nhiễm dục vọng nghĩa là người nữ có dục vọng, có sự khao khát, có tâm quyến luyến.

[Nam] nhiễm dục vọng nghĩa là người nam có dục vọng, có sự khao khát, có tâm quyến luyến.

Người nam nghĩa là nam nhân loại, không phải dạ-xoa nam, không phải ma nam, không phải thú đực, có trí suy xét, có khả năng thực hiện việc xúc chạm cơ thể.

Từ xương đòn [ở cổ] trở xuống: Là phía dưới xương đòn [ở cổ].

Từ đầu gối trở lên: Là phía trên đầu gối.

Sự sờ vào nghĩa là việc được cọ xát vào.

Sự vuốt ve nghĩa là sự di chuyển từ chỗ này qua chỗ khác.

Sự nắm lấy nghĩa là việc được nắm lấy.

Sự chạm vào nghĩa là việc được đụng vào.

Hoặc ưng thuận sự ôm chặt: Sau khi nắm lấy phần thân thể rồi ưng thuận việc ôm chặt vào.

Vị Ni này cũng: Được đề cập có liên quan đến các vị Ni trước đây.[2]

Là vị phạm tội Pārājika: Cũng giống như người đàn ông bị chặt đứt đầu, không thể sống bám víu vào thân thể ấy; tương tợ như thế, vị Tỳ-khưu-ni nhiễm dục vọng, ưng thuận sự sờ vào, hoặc sự vuốt ve, hoặc sự nắm lấy, hoặc sự chạm vào, hoặc sự ôm chặt của người nam nhiễm dục vọng từ xương đòn [ở cổ] trở xuống, từ đầu gối trở lên thì không còn là nữ Sa-môn, không phải là Thích nữ; vì thế được gọi là “vị phạm tội Pārājika.

Không được cộng trú: Sự cộng trú nghĩa là có chung hành sự, có chung việc đọc tụng [Giới bổn], có sự học tập giống nhau, điều ấy gọi là sự cộng trú. Vị Ni ấy không có được điều ấy, vì thế được gọi là “không được cộng trú.”

Trường hợp bị nhiễm dục vọng cả hai:[3] Vị dùng thân sờ vào thân [đối tượng] từ xương đòn [ở cổ] trở xuống, từ đầu gối trở lên thì phạm tội Pārājika. Vị dùng thân sờ vào vật được gắn liền với thân [đối tượng] thì phạm tội Thullaccaya. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào thân [đối tượng] thì phạm tội Thullaccaya. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào vật được gắn liền với thân [đối tượng] thì phạm tội Dukkaṭa. Vị sờ vào thân [đối tượng] bằng vật ném ra thì phạm tội Dukkaṭa. Vị sờ vào vật được gắn liền với [đối tượng] bằng vật ném ra thì phạm tội Dukkaṭa. Vị sờ vào vật [đối tượng] ném ra bằng vật ném ra thì phạm tội Dukkaṭa. Vị dùng thân sờ vào thân [đối tượng] từ xương đòn [ở cổ] trở lên, từ đầu gối trở xuống thì phạm tội Thullaccaya. Vị dùng thân sờ vào vật được gắn liền với thân [đối tượng] thì phạm tội Dukkaṭa. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào thân [đối tượng] thì phạm tội Dukkaṭa. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào vật được gắn liền với thân [đối tượng] thì phạm tội Dukkaṭa. Vị sờ vào thân [đối tượng] bằng vật ném ra thì phạm tội Dukkaṭa. Vị sờ vào vật được gắn liền với thân [đối tượng] bằng vật ném ra thì phạm tội Dukkaṭa. Vị sờ vào vật [đối tượng] ném ra bằng vật ném ra thì phạm tội Dukkaṭa.

Trường hợp bị nhiễm dục vọng một phía:[4] Vị dùng thân sờ vào thân [đối tượng] từ xương đòn [ở cổ] trở xuống, từ đầu gối trở lên thì phạm tội Thullaccaya. Vị dùng thân sờ vào vật được gắn liền với thân [đối tượng] thì phạm tội Dukkaṭa. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào thân [đối tượng] thì phạm tội Dukkaṭa. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào vật được gắn liền với thân [đối tượng] thì phạm tội Dukkaṭa. Vị sờ vào thân [đối tượng] bằng vật ném ra thì phạm tội Dukkaṭa. Vị sờ vào vật được gắn liền với thân [đối tượng] bằng vật ném ra thì phạm tội Dukkaṭa. Vị sờ vào vật [đối tượng] ném ra bằng vật ném ra thì phạm tội Dukkaṭa. Vị dùng thân sờ vào thân [đối tượng] từ xương đòn [ở cổ] trở lên, từ đầu gối trở xuống thì phạm tội Dukkaṭa. Vị dùng thân sờ vào vật được gắn liền với thân [đối tượng] thì phạm tội Dukkaṭa. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào thân [đối tượng] thì phạm tội Dukkaṭa. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào vật được gắn liền với thân [đối tượng] thì phạm tội Dukkaṭa. Vị sờ vào thân [đối tượng] bằng vật ném ra thì phạm tội Dukkaṭa. Vị sờ vào vật được gắn liền với thân [đối tượng] bằng vật ném ra thì phạm tội Dukkaṭa. Vị sờ vào vật [đối tượng] ném ra bằng vật ném ra thì phạm tội Dukkaṭa.

Trường hợp bị nhiễm dục vọng cả hai: Đối với dạ-xoa nam, hoặc ma nam, hoặc thú đực, vị dùng thân sờ vào thân [đối tượng] từ xương đòn [ở cổ] trở xuống, từ đầu gối trở lên thì phạm tội Thullaccaya. Vị dùng thân sờ vào vật được gắn liền với thân [đối tượng] thì phạm tội Dukkaṭa. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào thân [đối tượng] thì phạm tội Dukkaṭa. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào vật được gắn liền với thân [đối tượng] thì phạm tội Dukkaṭa. Vị sờ vào thân [đối tượng] bằng vật ném ra thì phạm tội Dukkaṭa. Vị sờ vào vật được gắn liền với thân [đối tượng] bằng vật ném ra thì phạm tội Dukkaṭa. Vị sờ vào vật [đối tượng] ném ra bằng vật ném ra thì phạm tội Dukkaṭa. Vị dùng thân sờ vào thân [đối tượng] từ xương đòn [ở cổ] trở lên, từ đầu gối trở xuống thì phạm tội Dukkaṭa. Vị dùng thân sờ vào vật được gắn liền với thân [đối tượng] thì phạm tội Dukkaṭa. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào thân [đối tượng] thì phạm tội Dukkaṭa. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào vật được gắn liền với thân [đối tượng] thì phạm tội Dukkaṭa. Vị sờ vào thân [đối tượng] bằng vật ném ra thì phạm tội Dukkaṭa. Vị sờ vào vật được gắn liền với thân [đối tượng] bằng vật ném ra thì phạm tội Dukkaṭa. Vị sờ vào vật [đối tượng] ném ra bằng vật ném ra thì phạm tội Dukkaṭa.

Trường hợp bị nhiễm dục vọng một phía: Vị dùng thân sờ vào thân [đối tượng] từ xương đòn [ở cổ] trở xuống, từ đầu gối trở lên thì phạm tội Dukkaṭa. Vị dùng thân sờ vào vật được gắn liền với thân [đối tượng] thì phạm tội Dukkaṭa. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào thân [đối tượng] thì phạm tội Dukkaṭa. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào vật được gắn liền với thân [đối tượng] thì phạm tội Dukkaṭa. Vị sờ vào thân [đối tượng] bằng vật ném ra thì phạm tội Dukkaṭa. Vị sờ vào vật được gắn liền với thân [đối tượng] bằng vật ném ra thì phạm tội Dukkaṭa. Vị sờ vào vật [đối tượng] ném ra bằng vật ném ra thì phạm tội Dukkaṭa. Vị dùng thân sờ vào thân [đối tượng] từ xương đòn [ở cổ] trở lên, từ đầu gối trở xuống thì phạm tội Dukkaṭa. Vị dùng thân sờ vào vật được gắn liền với thân [đối tượng] thì phạm tội Dukkaṭa. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào thân [đối tượng] thì phạm tội Dukkaṭa. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào vật được gắn liền với thân [đối tượng] thì phạm tội Dukkaṭa. Vị sờ vào thân [đối tượng] bằng vật ném ra thì phạm tội Dukkaṭa. Vị sờ vào vật được gắn liền với thân [đối tượng] bằng vật ném ra thì phạm tội Dukkaṭa. Vị sờ vào vật [đối tượng] ném ra bằng vật ném ra thì phạm tội Dukkaṭa.

Không cố ý, vị Ni thất niệm, vị Ni không hay biết,[5] vị Ni không ưng thuận, vị Ni bị điên, vị Ni có tâm bị rối loạn, vị Ni bị thọ khổ hành hạ, vị Ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.

Dứt điều Pārājika thứ nhất.

--oo0oo--

 

Chú thích

[1] Migāranattā dịch theo từ sẽ là “cháu trai của Migāra” và bà Visākhā là mẹ của Migāra (Migāramātā), nên Sāḷha sẽ là cháu cố của bà Visākhā. Tuy nhiên, ngài Buddhaghosa giải thích rằng: “Chữ ở giữa (mātā) đã bị bỏ bớt nên cần phải hiểu rằng: ‘Migāramātuyā pana nattā hoti’, nghĩa là cháu trai (nội hoặc ngoại) của Migāramātā, tức là bà Visākhā” (VinA. IV. 900).

[2] Tính luôn các Tỳ-khưu-ni đã vi phạm 4 điều Pārājika đã được quy định chung với Tỳ-khưu nên gọi là các vị Ni trước đây. (VinA. IV. 901).

[3] Trường hợp bị nhiễm dục vọng cả hai: Vấn đề vị Tỳ-khưu-ni hay đối tượng nam là người thực hiện hành động thật sự làm chúng tôi bối rối. Bản dịch của cô I. B. Horner ghi rõ, chính vị Tỳ-khưu-ni là người thực hiện các hành động sờ vào, vuốt ve, v.v... ở trên cơ thể của phái nam. Trái lại, chúng tôi đã xem xét kỹ các đoạn văn Pāḷi về nhiều phương diện: Văn phạm, ngữ cảnh, thành ngữ và xác định rằng, các hành động trên là của phái nam. Như ở trong câu chuyện mở đầu, Tỳ-khưu-ni Sundarīnandā chỉ tiếp nhận và ưng thuận (sādiyati) hành động từ phía đối tượng người nam thay vì thực hiện (samāpajjati): Chú ý so sánh sự khác biệt của hai nhóm từ purisapuggalassa kāyasaṃsaggaṃ mātugāmena saddhiṃ kāyasaṃsaggaṃ. Hơn nữa, ở phần quy định điều học, từ sādiyeyya (đồng ý, chấp thuận, thích thú,...) cũng đã được sử dụng; nếu vị Tỳ-khưu-ni là người tạo tác, các động từ được dùng phải là āmaseyya, parāmaseyya,... Vấn đề ở đây là căn cứ vào văn phạm thì không thể xác định được giới tính nam hay nữ trong câu văn; điều này hiếm khi xảy ra đối với loại ngôn ngữ này. Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: Vị Tỳ-khưu-ni sờ vào thân người nam hay ưng thuận việc người nam sờ vào thân [của mình] cũng bị phạm tội tương đương, tùy theo vị trí sờ vào ở trên thân thể (VinA. IV. 901). Như vậy, câu văn ở trên có thể hiểu theo hai cách, và điều quy định này cần hiểu luôn cả hai khía cạnh: Vị Tỳ-khưu-ni ưng thuận hành động của phái nam hoặc chính vị Ni thực hiện các hành động trên. Chúng tôi ghi nghĩa theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa nên dùng chữ “vị” và “[đối tượng] không xác định giới tính”, quý độc giả nên hiểu cả hai cách.

[4] Trường hợp bị nhiễm dục vọng một phía: Cô I. B. Horner dịch rằng, người thực hiện hành động là vị Tỳ-khưu-ni. Về điểm này, văn phạm cũng không xác định rõ giới tính. Ngài Buddhaghosa giải thích là cả hai trường hợp như đã được ghi ở trên. Chúng tôi xin phân tích thêm như sau: Trường hợp vị Tỳ-khưu-ni nhiễm dục vọng và chủ động thì phạm tội theo quy định; trường hợp người nam nhiễm dục vọng, sờ vào cơ thể của vị Tỳ-khưu-ni, nếu vị Tỳ-khưu-ni không ưng thuận, thì không phạm tội như đã được xác định ở phần “không phạm tội” ở đoạn kết. Từ “avassute” được hiểu là danh tĩnh từ, trung tánh, định sở cách, số ít. Qua hai đoạn văn đầu, có thể nghĩ rằng, vị Tỳ-khưu-ni đóng vai trò thụ động, nhưng từ đoạn văn thứ ba trở đi, tuy không thể xác định rõ ràng được giới tính qua văn phạm nhưng việc vị Tỳ-khưu-ni đóng vai trò chủ động được thể hiện qua ngữ cảnh; có lẽ đây là điểm để cô I. B. Horner xác định lối dịch của cô. Trái lại, chúng tôi ghi nghĩa theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa vì nó bao quát được mọi tình huống có thể xảy ra trong trường hợp này, nghĩa là dầu cho vị Tỳ-khưu-ni nhiễm dục vọng, có sự ưng thuận, dầu là chủ động hay thụ động trong khi tiếp xúc thân thể với người nam, ở phần thân từ xương đòn [ở cổ] trở xuống và từ đầu gối trở lên, đều phạm tội Pārājika.

[5] Asatiyā: Vị Ni thất niệm, nghĩa là tâm đang bận suy nghĩ việc khác. Ajānantiyā: Vị Ni không biết đây là người nam hay người nữ (VinA. IV. 902).